Recent Posts

Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2016

Long Hoa Mật Tạng Quyển7

QUỐC BẢO CHÂN KINH

LONG

HOA

MẬT TẠNG

KINH

THIÊN ẤN - THIÊN BÚT

GÒ HỘI

ĐỨC PHỔ - QUẢNG NGÃI

2000

Cao Đức Thắng



QUYỂN 7


CHƯƠNG 19

PHẦN 4

ÂM MƯU XÂM LƯỢC CÁC THẾ LỰC NGOẠI BAN TAN RÃ. NHỜ VÀO CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO KHÉO LÉO CỦA QUỐC TỔ VUA HÙNG

Quốc Tổ Hùng Vương là vị Quốc Vương uy Dũng tuổi trẻ tài cao, văn hay võ giỏi. Đạo Đức trùm Thiên Hạ. Mở màng một giai thoại Lịch sử. Sáng lập khai sinh ra Nền Quốc Đạo. Sáng lập khai sinh ra Nước Văn Lang. Sáng lập lên. Thượng viện Quốc Đạo. Hạ viện Quốc Hội. Quốc Hội sáng lập lên. Nền văn minh ÂU VIỆT, LẠC VIỆT mở ra thời Đại mới, thời Đại Hùng Vương.

Cải tổ đổi mới đường lối chính sách theo lối củ lạc hậu. Đổi mới cải tổ Chính trị Quân sự. Đổi mới khoa học, kỷ thuật. Thể Dục, thể thao, văn hóa nghệ thuật, phong tục tập quán, phong tục tín ngưỡng, vận hành Hiến pháp, Luật pháp, Công lý, Đạo Đức đi vào đời sống Nhân Dân. Nước Văn Lang rộng hơn Nước Xích Quỷ gấp 3 lần, phần lớn về phía Nam. Nước Văn Lang. Đông giáp Biển. Tây giáp Ba Thục. Bắc giáp Hồ Động Đình. Nam giáp Hồ Tôn. Bao hàm hầu hết. Miền Giang Nam của Lảnh Nam Trung Quốc. Quảng Đông. Quảng Tây. Vân Nam. Quí Châu. Công Minh. Trung Khánh. Hàng Châu. Phúc Châu v.v… và còn nhiều Châu Tỉnh khác nữa và Bắc phần Nước Việt Nam. Từ Nghệ An giáp Hà Tỉnh trở ra. Nước Văn Lang vô cùng rộng lớn. Được chia ra làm 15 Bộ Quân Khu. Quân Khu 1 đến Quân Khu 15. Tính từ Bắc vào Nam Nước Văn Lang. Mỗi Quân Khu có nhiều Châu. Mỗi Châu có nhiều Quận, Huyện. Mỗi Quận, Huyện có nhiều xã nhiều thôn, vì nước Văn Lang rộng quá nên Thôn, xã, Quận, Huyện rất lớn. Dân cư thưa thớt làng, xã cách xa nhau.
- Đứng đầu các Bộ Quân Khu là Lạc Vương, Hầu Vương.
- Đứng đầu các Châu là Lạc Tướng, Hầu Tướng.
- Đứng đầu Quận, Huyện là Bố Chánh Trưởng Ti.
- Đứng đầu xã là Lạc Dân, Lạc Điền.

Nói về ở bên kia sông Trường Giang có nhiều Vương Quốc Đế Vương hùng mạnh. Trong nhiều Đế Vương hùng mạnh, phải kể đến 3 anh em nhà Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh là hùng mạnh nhất. Con Cháu 12 đời của Hiên Viên Phục Hi. Đế Lai là vị Đế Vương hùng mạnh nhất, bá chủ nhiều trấn chư hầu bên kia sông Trường Giang, dân đông tướng tài. Ba anh em nhà Đế Lai là mối lo trước đây của Nước Xích Quỷ, không biết chiến tranh xảy ra lúc nào. Đế Lai vốn đã mạnh, lại thêm có nàng Công Chúa xinh đẹp, pháp thuật Thần Thông Quảng Đại, không có ai là đối thủ, làm cho các thế lực Đế Vương khác phải e dè nể sợ.

Nói về vợ của Đế Lai là Hoàng Đại Nương nhơn từ Đức Độ. Một hôm Hoàng Đại Nương, trong giấc ngủ thấy Mặt Trăng bổng dưng tỏa sáng một cách kỳ lạ. Tỏa sáng hơn gấp 10 lần Mặt Trăng lúc thường, ánh Trăng dịu mát làm cho Hoàng Đại Nương cảm thấy khỏe hẳn lên. Bổng nhiên Hoàng Đại Nương nghe tiếng nhạc du dương từ hư không vọng xuống. Hàng trăm Phụng Hoàng hiện ra ca múa. Hoàng Đại Nương liền thấy 1 người trung niên Tiên Nữ xuất hiện. Đẹp đến nổi mê mẩn vừa sùng kính bởi dung mạo, xinh đẹp và sự cao sang quí phái của Tiên Nữ. Tiên Nữ tay cầm vải lụa ngũ sắc phất qua phất lại rồi nói rằng. Ta vân lịnh Mẹ ta là Địa Mẫu Âu Cơ xuống thế. Tiên Nữ nói xong thời biến mất. Hoàng Đại Nương giật mình tỉnh giấc coi lại thời mới đầu canh ba, sau đó thời Hoàng Đại Nương mang thai. Hoàng Đại Nương đem chuyện lạ ấy nói cho Quốc Vương Đế Lai nghe. Không bao lâu Hoàng Đại Nương lâm bồn thời Chim Phụng Hoàng lại bay đến múa hát. Mùi hương thơm ngào ngạc từ bé gái chào đời tỏa ra. Vì sự ra đời của Công Chúa có nhiều sự trùng hợp trong giấc mộng của Đại Nương nên Đế Lai đặc tên cho con gái mình là Phụng Cơ Công Chúa. Con của Địa Mẫu Âu Cơ xuống trần.

Phụng Cơ Công Chúa càng lớn càng xinh đẹp, càng quí phái, sắc nước hương Trời, hoa Dung lộng lẫy ít ai sánh được. Có vị Đạo Sỉ Thần giáo Tiên đoán số mệnh Phụng Cơ Công Chúa, sau nầy sẽ trở thành Mẫu Hoàng của một Đất Nước rộng lớn giàu có hùng mạnh bậc nhất, không có một Đất Nước nào sánh kịp. Đế Lai nghe Đạo Sỉ Thần giáo Tiên đoán tương lai Phụng Cơ rực rở như thế thời lấy làm mừng lắm. Công Chúa càng lớn càng thông minh một cách thần kỳ, văn hay võ giỏi học một biết mười biết trăm. Binh thơ sách lược, pháp thuật Thần Thông đều hơn hẳn mọi người, phần lớn dụng binh kỳ ảo kế sách như Thần. Đế Lai nhờ có Phụng Cơ nổi danh như sấm. Công Chúa Phụng Cơ được Đế Lai coi như là báu vật Quí nhất trên đời. Các Thái Tử con Vua của các Nước láng giềng. Các trấn chư hầu lân cận. Trong số Thái Tử, con Vua, con của các trấn chư hầu như Thái Tử Tào, Thái Tử Tống, Thái Tử Triệu, Thái Tử Mông, Thái Tử Minh, Thái Tử Nguyên, Thái Tử Thanh, Chúa Tử Tần, Chúa Tử Sở v.v… và còn nhiều Chúa Tử, Thái Tử khác nữa. Nhưng chẳn có ai vừa mắt xanh của Công Chúa. Sự kén chọn mãi của Công Chúa làm cho Đế Lai lo ngại khi Công Chúa càng ngày càng lớn tuổi. Có một điều lo ngại nữa là Nước Văn Lang đang lớn mạnh. Ba anh em nhà Đế Lai luôn luôn có dã tâm lớn. Có cơ hội là xâm lấn nước Xích Quỷ nhưng chưa thuận lợi thời cơ. Nay nghe Nước Xích Quỷ biến thành Nước Văn Lang Đại Nam rộng lớn, dân số tăng lên gấp đôi. Tuy biết Vua Hùng ở Kinh Đô Văn Lang xa xôi. Không ở Nam Kinh Xích Quỷ nhưng chưa dám tấn công xâm lấn Đất Đai Đại Nam.

Nói về Quốc Tổ Hùng Vương là Chí Tôn giáo Tổ Đầu thai xuống trần để cứu nhân độ thế, không phải xuống trần để tranh bá tranh hùng. Quốc Tổ Vua Hùng rất coi trọng mạng sống con người. Tôn trọng Quyền Bình Đẳng. Tôn trọng Quyền tự do Nhân Quyền con người. Hùng Vương đánh giặc bằng binh pháp trí tuệ. Bất chiến tự nhiên thành, ít dùng đến bạo lực, gươm đao giáo mác. Sức mạnh Hùng Vương chính là sức mạnh toàn Dân. Nên không có một sức mạnh nào chống lại sức mạnh của Hùng Vương.

Ba anh em Đế Lai cho người qua nước Đại Nam Văn Lang theo dõi. Thấy Dân chúng đoàn kết muôn người như một. Một lòng một dạ tôn thờ Quốc Tổ Vua Hùng, ai nấy cũng hết lòng vì Non vì Nước vì Quê Hương của mình. Ba anh em nhà Đế Lai có vẽ khiếp sợ trước sự Lãnh Đạo Đất Nước Tài Đức của Vua Hùng. Ba anh em nhà Đế Lai càng nghỉ càng lo sợ tương lai Vua Hùng sẽ tiến công về Đất Bắc. Những kế sách tiếp theo của Vua Hùng, ba anh em nhà Đế Lai không thể nào đoán trước được.

Đế Lai là anh cả nhìn Trời rồi than. Đất Nước Phương Nam là Đất Nước gì, sao lúc nào cũng sanh ra các bật Đại anh hùng kỳ tài như thế. Hùng Vương mà còn sống trên đời. Đừng nói chi tới chuyện thôn tính Nước Đại Nam. Ngay cả Đất Bắc còn khó giữ vững cho được. Vua Hùng là Đấng kỳ tài, kỳ trí, kỳ Đức. Với Nền Quốc Phòng toàn Dân bảo vệ Đất Nước. Toàn Dân xây dựng Đất Nước. Toàn Dân khởi nghĩa chống ngoại xâm. Toàn Dân cảnh giác quân thù. Với chính sách lấy Dân làm gốc. Tạo lên sức mạnh vô địch, phát huy cái gốc của Dân chính là Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc, sức mạnh Tinh Thần đoàn kết, sức mạnh dời non lấp biển, sức mạnh Thần Thánh. Với Ba Cơ Quan Lãnh Đạo Đất Nước. Thượng Viện Quốc Đạo Lãnh Đạo tinh thần Dân Tộc. Hạ Viện Quốc Hội Lãnh Đạo phát triển Đất Nước. Quốc Hội thi thành mọi chủ trương của Đạo, của Nhà Nước đi vào đời sống nhân dân, phải nói Vua Hùng Tài Đức biết bao. Một nhân vật không dễ đối phó. Càng suy nghỉ ba anh em nhà Đế Lai càng ngao ngán. Miếng thịt béo bở coi vậy mà khó nuốt.

Ba anh em nhà Đế Lai chưa tìm ra kế sách gì. Để nuốt dần nuốt dần nước Văn Lang Đại Nam. Thời có Quan vào báo. Có sứ giã của Nước Đại Nam Văn Lang đến. Ba anh em nhà Đế Lai, có tật giật mình. Nhưng rồi cũng cho sứ giã Đại Nam Văn Lang vào diện kiến. Ba anh em nhà Đế Lai lại thêm một phen kinh ngạc giật mình lần nữa. Sứ giã của Nước Đại Nam Văn Lang, không phải là vị quan mà là một Đạo Sỉ Thần giáo. Nổi tiếng Tổ Sư của giáo phái vô ga. YOGA. Luyện Đan pháp thuật Thần Thông trùm Thiên Hạ. Đế Lai đã biết qua con người nầy. Nên liền đứng dậy chấp tay thi lễ nói. Không ngờ sứ giã của Nước Văn Lang là Đạo Sư. Thì ra vị Đạo Sỉ sứ giã nước Văn Lang không ai khác hơn chính là Cao Tông em của Cao Tổ. Cao Tông đáp lễ nói. Bần Đạo là sứ giã của Nước Văn Lang, xin ra mắt ba vị Quốc Vương. Ba anh em nhà Đế Lai đáp lễ, mời Cao Tông ngồi.

Đế Lai tò mò hỏi. Đạo Sư làm chức vụ gì ở Nước Văn Lang? Cao Tông đáp. Thưa Quốc Vương Bần Đạo làm chức Lạc Vương, phó viện trưởng viện Quốc Đạo. Ba anh em nhà Đế Lai lại một phen nữa giật mình nhìn nhau. Không hiểu Vua Hùng có ý gì mà phái một Vương Quan cao cấp nhất nhì Nước Văn Lang đến đây. Nhìn nét mặt căng thẳng của ba vị Quốc Vương. Cao Tông đã hiểu ra phần nào sự lo lắng của ba vị Quốc Vương. Cao Tông không muốn sự căng thẳng lâu liền lên tiếng. Thưa ba vị Quốc Vương. Tôi được Vua Hùng giao phó đến đây gặp Quí Quốc. Là để nói lên sự giao hảo làm bạn với Quí Quốc. Cao Tông nói xong liền dân lên bảy bức thông điệp đàm phán do Hùng Vương vẽ họa ra. Đế Lai tiếp nhận bảy bức họa tiết mở ra cho ba anh em cùng xem. Với họa tiết hình ảnh nhân vật, quang cảnh sống động, họa tiết đường nét sắc sảo như thật, đẹp mắt vô cùng. Nhìn vào hình ảnh, quang cảnh sống động, cọng thêm dấu hiệu ÂM SẮC PHỤ ÂM.



Cùng những dấu hiệu, ký hiệu




Dấu hiệu đơn, ký hiệu khác nữa v.v…
((Xem Bộ Kinh Văn Lang Chiến Sự sẽ nói rõ hơn về biểu thị ra ni chữ viết sơ khai của người tiền sử)).

Nhìn vào hình ảnh quang cảnh sống động và những Âm Sắc, những dấu hiệu biểu thị ý văn. Thời có thể nhận biết những gì mà người gỡi muốn nói. Đàm phán trong bảy bức thông điệp họa tiết. Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi say sưa ngắm nhìn bảy bức họa tiết thông điệp đàm phán nầy. Quên cả sứ giã của Đại Nam Văn Lang, còn đang ngồi ở đó.

Công Chúa Phụng Cơ thấy Cha cùng hai chú say sưa với bảy bức họa tiết thông điệp đàn phán, luôn khen ngợi và quên đi tất cả liền sanh tánh tò mò. Không biết bảy bức thông điệp kia nói gì trong đó. Công Chúa đến xem bức họa tiết thông điệp đàm phán thứ nhất thời sửng sốt, với những nét vẽ thần kỳ sống động như thật. Rồi xem ý văn muốn nói trong bức thông điệp. Công Chúa quá bất ngờ thâm ý đàm phán của ý văn. Liền ngây người ra suy nghỉ. Hùng Vương là người thế nào mà tài hoa như vậy. Bức thông điệp họa tiết đàm phám thứ nhất nội dung họa tiết như sau.
Phần 1: Hùng Vương vẽ hai Dân Tộc bắt tay nhau. Hết sức thân thiện nét mặt rạng rỡ, ý nói hai Dân Tộc Nam Bắc, là hai anh em cùng một nhà, là bạn bè tốt, láng giềng tốt, quan hệ tốt giao hảo tốt.
Phần 2: Hùng Vương vẽ hai Dân Tộc Nam Bắc kết bạn không kết thù.
Phần 3: Hùng Vương vẽ hai bên thương lượng hợp tác với nhau.
Phần 4: Hùng Vương vẽ hai Dân Tộc. Hai Nhà Nước, hợp tác toàn diện đôi bên cùng có lợi. Công Chúa Phụng Cơ nghỉ với bức thông điệp đàm phán thứ nhất, qua bốn phần nội dung. Đã nói lên hàng chục ý đàm phán thương lượng, ý nào cũng thâm sâu ẩn ý tốt.

Trong đó có nhiều ý tưởng Công Chúa quan tâm nhất. Đó là ý tưởng, hai bên muốn đạt được mục đích, không cần chiến tranh. Mà chỉ thông qua đàm phán, hợp tác toàn diện hai bên cùng có lợi. Sống trong giao hảo, đầy tình hửu nghị giao hòa Nam Bắc. Giàu lòng mến khách. Tôn trọng lẩn nhau. Đại Đồng Bình Đẳng. Độc Lập tự chủ, hai bên cùng hưởng lợi hai bên cùng tiến. Công Chúa lại xem bức thông điệp họa tiết đàm phàm thứ hai, lấy làm kinh dị về ý nghĩa bố cục họa tiết như sau.
Phần 1: Hùng Vương vẽ hai nước xúc tiến giao thương đường biển, đường bộ, qua các cảng, cửa, xóa bỏ rào cản, thuế ngạch, để cho hàng hóa thông thương, làm giàu cho Nam Bắc hai Dân Tộc hai Đất Nước.
Phần 2: Hùng Vương họa tiết, các Bộ Ngành của hai Nước. Công - Nông - Ngư - Thương. Khoa học, văn hóa, nghệ thuật, ký kết giao dịch trao đổi với nhau. Cung, cầu tùy theo nhu cầu của mỗi nước, Công Chúa xem qua hai nội dung bức thông điệp đàm phán thứ hai. Tưởng như mình đang lạc vào thế giới mới. Thế giới có nền văn minh hiện đại. Trình độ dân trí cao, xã hội dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh.

Công Chúa nói với Đế Lai. Hùng Vương là Đấng Dị Nhân trên đời. Không những không sợ sự xâm lược của các thế lực dòm ngó hay thù địch. Mà còn mở ra con đường ngoại giao thật mới mẻ. Mỗi bức thông điệp đàm phán đều nói lên những xúc tiến hai bên cùng có lợi. Thúc đẩy hai Dân Tộc vững bước phát triển đi lên. Mạnh về giao thông, mạnh về kinh tế, mạnh về khoa học, kỷ thuật. Tiến tới cảnh Dân giàu nước mạnh không cần đưa đến một sự xung đột nào. Mà chỉ thông qua sự đàm phán. Hai bên hợp tác với nhau giữa các bộ ngành thông qua thương ngạch hai chiều. Trao đổi những gì mà hai bên cần, xuất nhập, cung cầu, cạnh tranh bình đẳng. Trên một sân chơi công bằng bình đẳng. Nguồn tài nguyên của hai nước dung hòa thành một. Làm tăng thêm sự phát triển giàu có cho hai Đất Nước. Nâng cao trình độ Dân Trí, nâng cao đời sống xã hội của hai Quốc gia lên một tầm cao mới. Mà vẩn bảo đảm về Chủ Quyền Độc Lập, Quyền Tự Do, Tự Chủ của mỗi đất nước.

Đế Lai nói đây là điều quá mới mẻ đối với đất nước chúng ta. Có thể nói là những điều quá mới lạ. Nhưng xét đi xét lại thời có lợi cho Đất Nước chúng ta, hơn là có hại. Đế Minh, Đế Nghi cũng nói với những gì trong thông điệp đàm phán, thời không có hại gì cho ta cả. Không những còn có lợi nữa là khác. Vì Nước Văn Lang giàu có tài nguyên khoáng sản. Cũng như giàu về Biển Đảo Núi Rừng. Nhất là nền văn minh Đồng Thau Vàng Bạc. Lúa nước hơn ta gấp nhiều lần. Công Chúa lại xem bức thông điệp họa tiết đàm phán thứ ba.
Phần 1: Hùng Vương vẽ họa tiết sống động như người thật. Hình ảnh hai vị Quốc Sư Đại Diện cho hai đất nước, bắt tay nhau theo kiểu phương Tây rồi ôm lấy nhau. Chỉ có tình thương không có hận thù. Trong chiếc nôi chung Trái Đất. Trong ngôi nhà chung vũ trụ, thắm thiết tình hữu nghị anh em.

Xem bức thông điệp đàm phán thứ ba nầy. Công Chúa đã cảm nhận lời lẽ đàm phán ẩn chứa sâu xa. Lời lẽ của Đức Chí Tôn lâm phàm. Con tim Công Chúa liền rung động, một sự rung động mà ngay Công Chúa cũng không giải thích nỗi. Không lẽ ta đã yêu. Một con người mà ta chưa từng thấy mặt. Công Chúa không dám nghỉ nữa. Phải nói Tư Tưởng Quốc Tổ Hùng Vương là nhà Tư Tưởng đoàn kết Dân Tộc, đoàn kết Nhân Loại, hướng tới thế giới Đại Đồng. Nhân Quyền Bình Đẳng Dân Chủ văn minh. Tất cả vì sự sống con người. Tất cả vì Nguồn vì Cội. Vì Nhân Loại anh em, vì hai chữ Thiêng Liêng Đồng Bào. Chỉ có tình thương không có hận thù. Chỉ có đoàn kết không chia rẽ. Không phân biệt giai cấp, không phân biệt màu da chủng tộc. Tất cả đều Bình Đẳng. Tất cả đều có Quyền đi lên, Quyền mưu cầu hạnh phúc, sự tiến lên giàu mạnh của mỗi Đất Nước không cần thiết dùng đến vũ lực mà thông qua con đường ngoại giao, xúc tiến hợp tác kinh tế, giúp đở cho nhau cùng tiến bộ cùng vượt lên. Với chủ thuyết nầy Quốc Tổ Vua Hùng được ba anh em Nhà Đế Lai chấp nhận. Có thể nói bất chiến tự nhiên thành. Nhờ vào ngoại giao, cùng đường hướng hai bên cùng có lợi. Được các Vương Quốc xa gần kính phục. Ba anh em nhà Đế Lai phải thừa nhận Quốc Tổ Hùng Vương là nhà Chính trị, Quân sự, Ngoại giao, Đạo Đức đã đạt đến cảnh giới, không còn ai hơn được nữa. Trăng Sao khó mà sánh với Mặt Trời. Ánh sáng Đại Đồng Chính Nghĩa đã tỏa sáng thời những án mây đen Phi Nghĩa không còn chổ đứng để tồn tại. Công Chúa Phụng Cơ càng xem những bức thông điệp đàm phán của Vua Hùng càng thấy Vua Hùng sanh ra ở đời không phải để tranh giành Quyền lực, cũng không phải sanh ra để cai trị Dân. Mà sanh ra để cứu Dân, cứu Nhân Loại thoát khỏi chiến tranh đẩm máu, hận thù chồng chất. Đã chiến tranh thời gây bất lợi cho cả đôi bên.

Công Chúa càng xem những ý tứ họa tiết đàm phán thứ tư, thời thở dài lắc đầu.
Phần 1: Vua Hùng vẽ. Các Bộ Ngành Nước Đại Nam Văn Lang, gởi thông điệp mời các Bộ Ngành Đất Bắc, sang thăm Đại Nam Văn Lang, với họa tiết tiếp đón long trọng, bảo đảm an ninh cho đến khi trở về nước, và ngược lại Đất Bắc cũng làm như thế. Để cho hai Dân Tộc, hai nhà nước càng thân thiện, càng hiểu nhau.
Phần 2: Hùng Vương vẽ những họa tiết giao lưu Văn Hóa, giao lưu nghệ thuật, giao lưu thể dục thể thao. Để cho hai Nước xích lại gần nhau hơn. Cùng nhau nâng cao trình độ Dân trí, cùng nhau nâng cao sức khỏe, đẩy lùi bệnh tật. Mạnh về thể chất, tráng kiện về tinh thần.

Công Chúa càng xem những bức thông điệp đàm phán tiếp theo. Không hiểu Vua Hùng dựa vào đâu mà không sợ. Những đối phương có mưu đồ xấu, gây bất lợi cho mình. Vì Nước Đại Nam Văn Lang là một Đất Nước màu mỡ béo phì. Ai cũng muốn thèm thuồng muốn chiếm đoạt cho được nhưng chưa biết làm sao để tấn công lấn chiếm. Nay Vua Hùng lại mở ra chính sách ngoại giao hợp tác toàn diện. Qua lại xúc tiến giao thương làm ăn, kẻ ngay người gian thì làm sao. Trong sự đàm phán không thấy có sự đề phòng cấm đoán rào cản nào cả. Và Công Chúa cố gắng đặc ra nhiều giả thiết gây bất lợi cho Nhà Nước Văn Lang. Nhưng Công Chúa tìm mãi không ra chổ sơ hở nào của Nhà Nước Văn Lang để mà gây thiệt hại được. Mà chỉ thấy những điều có lợi cho Nhà Nước Văn Lang. Như con Rồng thấy Đầu mà chẳng thấy Đuôi. Thấy Đuôi mà chẳng thấy Đầu. Chính sách ngoại giao hợp tác toàn diện của Vua Hùng hết sức bí ẩn, ẩn tàng bao nghệ thuật phương pháp phát triển đất nước. Làm cho nước Văn Lang mạnh về kinh tế, vững vàng về Quốc phóng. Nhất về mặt an ninh phòng bị, trên dưới một lòng đâu vào đó. Đời trong Đạo, Đạo trong Đời. Làm cho các nước lân ban khiếp sợ. Khiếp sợ về Văn Hóa Tiên Rồng, khiếp sợ về sự hùng mạnh của Nước Văn Lang, khiếp sợ về tinh thần cao độ chống ngoại xâm. Nước Văn Lang như cái bẫy lớn giăng ra khi cần là kéo mẻ lưới tốm gọn. Chủ động tất cả mọi tình thế. Động binh Đao là thế. Còn tịnh thời như loài Rồng, loài Hổ khoe nanh, khoe vuốt cho đối thủ xem. Nếu là loài Hổ cũng không dám manh tâm hành động. Huống chi là Loài Chồn Cáo. Nhìn thấy nanh vuốt của Loài Hổ, Loài Rồng sợ lưng mật còn tinh thần đâu mà dòm ngó tới Đất Nước Văn Lang. Công Chúa nghỉ tuy ở thời đại bây giờ mạnh là Vua, thua là nô lệ. Dã tâm của các vì Quốc Vương rất lớn. Luôn luôn dòm ngó tới Đất Nước Văn Lang. Nhưng đối với Hùng Vương chỉ là những con mảnh Hổ sống đơn lẽ không có gì đáng sợ đã nằm gọn trong mẻ lưới ngoại giao của Hùng Vương. Nhìn qua nét vẽ họa tiết, cũng như ý tứ trong những bức thông điệp đàm phán, tuy mềm dẽo khiêm nhường. Nhưng cũng rất cương quyết sẵn sàng đối mặt với những kẻ đối đầu dòm ngó tới Đất Nước Văn Lang. Công Chúa bằng nói với Đế Lai rằng. Thưa Cha. Hùng Vương có ý đàm phán với ta. Biến lạ thành quen, biến thù thành bạn, theo con nghỉ hai bên giao hảo, hai bên cùng có lợi, đó là một kế sách hay.

Đế Lai nói Hùng Vương không phải là người thường. Những việc Hùng Vương làm không ai làm nổi. Hùng Vương hàng phục hàng nghìn Đạo sỉ, Giáo sỉ, Tu sỉ. Hàng vạn người hùng nhân tài thuộc nhất đương thời. Hàng mấy mươi Bộ Lạc mà không mất một mũi tên, không đổ một giọt máu nào, chỉ dùng Chính Nghĩa hàng phục Thiên Hạ. Được Thiên Hạ mà không có kẻ oán người thù, không ai làm được. Cũng may là Cao Tông không có mặt ở đây đã được mời vào Đại Sảnh tiếp đãi rồi. Nên không nghe dược những lời Cha vừa nói. Ca ngợi đối phương khác nào tùng phục đối phương. Thật ra mà nói Cha chưa tiến quân đánh Nước Xích Quỷ là vì nghe tin Hùng Vương ra đời có nhiều chuyện lạ. Hoa Lan, Hoa Mai chờ Hùng Vương chào đời mới chịu nở. Từ khi Hùng Vương ra đời tới bây giờ lúc nào cũng tiếng tăm lừng lẫy. Chỉ giết loài ác Quỷ, không có cậy quyền ỷ thế, sách nhiễu con người. Nên rẩt được lòng dân chúng. Dân Nước Xích Quỷ nay là Nước Văn Lang. Sùng kính Hùng Vương như sùng kính Đấng Cha Trời. Ba Con Chúa Quỷ Thần Thông quảng đại vô biên. Thần Thánh cũng bị chúng giết, chúng đi mây về gió. Độn Thổ tàn hình, mình Đồng da Sắt. Thế mà vẩn bị Hùng Vương tiêu diệt như thường. Hôm nay Cha đã tận mắt chứng kiến, Hùng Vương dụng chiến thuật ngoại giao, diệu dụng như Thần như Thánh. Đã làm cho Cha cùng hai chú bái phục. Hùng Vương quả là Đấng con Trời xuống thế, giải quyết xung đột bằng con đường đàm phán. Con đường ngoại giao tháo gỡ mắt gút. Nói lên tất cả những gì mà hai bên cần bàn, dù hai Quốc Vương ở cách xa nhau hàng vạn dặm. Cha đã suy nghỉ. Cần giao hòa học hỏi hơn là giao chiến, vì giao chiến có hại hơn là có lợi, vì thế lực Văn Lang Đại Nam đang hùng mạnh,

Phụng Cơ Công Chúa nói. Thưa Cha con đường phát triển đất nước. Đâu cần đến chiến tranh thôn tính lẩn nhau. Mà chúng ta phát triển theo con đường ngoại giao vậy. Chúng ta cũng đạt được mục đích tiến tới cảnh dân giàu nước mạnh. Đế Lai nói Hùng Vương đã mở ra con đường ngoại giao, lợi ích của hai Dân Tộc bằng con đường đàm phán, hai bên cùng có lợi, đó là 1 diệp may cho chúng ta. Đại Nam Văn Lang là một đất nước giàu có hùng mạnh về mọi mặt. Được hợp tác xúc tiến làm ăn với một Đất Nước vừa hùng mạnh về tinh thần, vừa giàu có về vật chất. Lại một đất nước giàu lòng mến khách. Không có mưu mô chiếm đoạt các thuộc địa mà chỉ thông qua con đường ngoại giao đối tác xúc tiến làm ăn hai bên cùng có lợi. Tôn trọng Độc Lập Chủ Quyền của nhau. Đất Đai Bắc Á tuy rộng lớn. Nhưng là những Đất Nước nghèo. Chỉ ở trung nguyên ta là hơi khắm khá mà thôi. Những các Bộ Lạc lớn ở Bắc Á, xưng Vương, xưng Đế, ta vẩn chưa chinh phục được họ. Họ như những con thú hoang khó trị. Các thế lực Phương Bắc Á lúc nào cũng dồm ngó đến Trung Nguyên ta. Cũng như Trung Nguyên ta lúc nào cũng dồm ngó đến Nam Á Đại Nam Văn Lang. Nếu tiến đến hai cõi Trung - Nam giao hòa. Thế lực Trung Nguyên càng thêm hùng mạnh. Có thể nói gồm thâu các thế lực Bắc Á dễ như lấy đồ trong túi. Đất trung nguyên ta ra đời đời cường thịnh. Để hiểu biết hết bảy bức thông điệp đàm phán Công Chúa liền xem bức họa tiết thông điệp thứ 5.
Phần 1: Hùng Vương vẽ. Hai Quốc Vương, ở hai bên bờ sông, đông đảo dân chúng, cùng các quan bộ lại, chứng kiến hai Quốc Vương đồng chỉ tay xuống giữa dòng sông, phân ranh giới giữa hai Nước TÂY DƯƠNG và VĂN LANG sông Trường Giang.
Phần 2: Hùng Vương vẽ Vua - Quan - Dân chúng của 2 Nước. Chăm chỉ trên phần đất của mình, chăn nuôi, đánh bắt, trồng trọt cấy lúa. Không dồm ngó đến nước bạn hay xâm phạm qua đất bạn.

Công Chúa lại tiếp tục xem qua bức thông điệp đàm phán thứ 6.
Phần 1: Hùng Vương vẽ hai Đất Nước Núi liền Núi, Sông liền Sông. Hai nước như 2 anh em cùng chung dòng giống Tiên Rồng. Cùng chung láng giềng lân cận hàng xốm Châu Á, anh em tốt, láng giềng tốt, quan hệ tốt.
Phần 2: Hùng Vương vẽ những hàng Quốc cấm hoặc buôn bán hàng lậu. Nếu bị phát hiện liền bị tịch thu. Còn phải ở tù theo luật pháp của Nước đó.

Công Chúa lại xem bức thông điệp đàm phán cuối cùng, bức thông điệp đàm phán thứ 7.
Phần 1: Hùng Vương vẽ Công Dân của hai Nước. Muốn nhập cư sang nước bạn ở lâu dài. Thời phải được nhà nước đó chấp thuận. Trước khi phỏng vấn xét hỏi cho phép định cư hay không cho phép.
Phần 2: Hùng Vương vẽ những người dân di cư bất hợp pháp. Liền bị bắt giữ bị xử phạt ở tù, rồi sau đó trục xuất đuổi về nước.
Phần 3: Hùng Vương vẽ Công Dân của hai nước. Thông qua ngoại giao của hai Nước. Thành Tài xong ở lại định cư lâu dài. Hay trở về Cố Quốc là tùy theo nguyện vọng của đương sự. Nếu ở lại định cư lâu dài. Thời phải được Nhà Nước sở tại chấp nhận. Trước khi phỏng vấn xét hỏi, cho phép Định Cư lâu dài hay không cho phép.
Phần 4 : Hùng Vương vẽ nếu thống nhât hoặc chưa thống nhất ở điều khoảng nào thời thông qua ngoại giao để tiếp tục đàm phán.

Công Chúa xem xong bảy bức họa tiết thông điệp đàm phán liền thở dài. Cao Nhân còn có Cao Nhân trị. Mình tài giỏi còn có người tài giỏi hơn mình. Núi nầy cao nhưng còn núi khác cao hơn nữa. Tài Cao vô giới hạn không biết đâu là cùng. Bảy bức thông điệp đàm phán của Hùng Vương với sự tài hoa họa tiết ý tứ sâu sắc, chinh phục Thiên Hạ không phải bằng gươm Đao giáo mác. Mà bằng trí huệ, hùng trí, bi trí, tài trí, Đức trí. Phải nói Vua Hùng ngoài Thần Thông pháp thuật vô biên còn có cả Thần Thông trí huệ vô biên, vì thế những việc Vua Hùng làm khó có ai mà thông đạt hiểu nổi. Nếu có hiểu đi nữa thời không biết chổ nào là cùng.

Công Chúa nói Thưa Cha với trình độ Dân trí hiện nay. Thời còn đậm nét thời Nguyên Thủy sao lại sanh ra một con người lỗi lạc như thế. Họa chăng chỉ có Đức Chí Tôn xuống trần Chuyển Luân Thánh Vương. Với bảy bức họa tiết, đường nét hình ảnh sống động như thật, đó là thần kỳ rồi. Bố cục nội dung, văn ý lưu loát. Nói lên không biết bao điều. Mà thời nay chưa có ai nghỉ tới.

Thưa phụ vương chúng ta tiếp đãi sứ giã Nước Văn Lang Đại Nam với tấm lòng thiện chí, mở màng cho sự giao hảo hai bên cùng có lợi nầy. Thế là ba anh em nhà Đế Lai, chấp thuận những điều khoảng trong bảy bức thông điệp đàm phán. Từ đó Nam Bắc giao hòa hơn một nghìn năm thời xảy ra cố sự. Khi ấy đời hậu thế ba anh em nhà Đế Lai suy yếu. Trung Nguyên các nước ra đời nổi lên chia rẻ quyền lực. Ngô, Sở, Tần, Tấn, Vệ, Tống, Hạ v.v… và còn nhiều nước đang lớn mạnh nữa. Nhất là Thượng Hạ. Nhà Hạ đang nuốt lần các nước. Biến các Nước thành các Trấn Chư Hầu. Vua Đế Hạ nghe theo lời xúi nịnh của các trấn chư hầu, khởi binh xâm lược nước Đại Nam Văn Lang. Do Hồ Thiên Cầm Đầu, kếp hợp với Quân Hung Di giặc Mũ Đỏ. Nhưng bị Quân Văn Lang đánh bại thê thảm tơi bời. Tất cả đều bỏ mạng vùi thây chốn sa trường. Quân giặc khiếp kinh trước Bảo Kiếm trấn Quốc do Vua Hùng truyền lại.
Thơ truyền lại rằng.
Đất Văn Lang Rồng Chầu Hổ phục
Kiếm Vua Hùng truyền lại Cháu Con
Giặc xâm lấn biên cương Tổ Quốc
Long Hổ gầm chuyển núi dậy non
Gươm trấn Quốc vung lên chơm chớp
Giặc vùi chôn lớp lớp nát tan
Vạn nghìn năm giặc vẩn còn kinh khiếp
Đất Trời Nam tiếng sấm mãi rền vang.
**************


CHƯƠNG 19

PHẦN 5

DUYÊN TIỀN ĐỊNH

Trời kia còn có ÂM DƯƠNG
Cha Trời còn phải nhớ thương Mẹ Trời
ÂM DƯƠNG có bạn có đôi
Đất Trời tỏa sáng, Đạo Đời Nở Hoa
Người ta truyền giống người ta
Lưu truyền nòi giống để mà tồn vong
Duyên Trời đã định ai thông
Huyền Cơ Tạo Hóa vợ chồng nên đôi.

Nói về con gái của Đế Lai. Phụng Cơ Công Chúa, sắc nước hương Trời, kén chọn mãi. Tuổi đã 27 mà không có ai vừa mắt Phụng Cơ Công Chúa, không những có sắc đẹp hoa nhường Nguyệt thẹn, cá lặng nhạn sa. Mà Cầm - Kỳ - Thi - Họa xuất chúng, văn võ song toàn. Tài - Đức hiếm thấy. Lại thêm có nghề thủ công khéo léo. Chăn tằm dệt cửi, may vá thêu thùa có một không hai trên đời. Từ khi Công Chúa xem bảy bức thông điệp họa tiết đàm phán, do Vua Hùng vẽ ra. Họa Tiết sống động như thật, văn hoa xuất chúng, ý nghĩa sâu xa, hàm ý rộng lớn. Đàm phán nội dung mềm yếu như Nước. Nhưng cũng cứng rén hơn sắt thép kim cang. Chiến cũng đó mà hòa cũng đó. Cái lợi đem đến cho người. Có cái lợi về mình trùm bá mà không mấy ai thấy nổi.

Tuy hai Nước giao hòa. Nhưng kỷ cương phép Nước như tường Đồng vách Sắt. Khó mà xâm phạm mưu đồ bất chính. Bắt tay hợp tác xúc tiến làm ăn. Nhưng vẩn thể hiện chủ quyền Độc Lập Nam Bắc. Hòa hợp nhưng không hòa tan. Bản sắc Cội Nguồn không mất. Hai Dân Tộc Nam Bắc như hai Vườn Hoa đầy màu sắc, để rồi hướng về tô thắm sắc xuân.

Công Chúa nghỉ thế gian có người như thế mà ta không nghỉ đến. Càng nghỉ tâm hồn Công Chúa càng xao xuyến nghỉ vẩn nghỉ vơ biến ăn biến ngủ. Công Chúa mỗi ngày mỗi tiều tụy đi thấy rõ. Đế Lai thấy Công Chúa mỗi sa sút. Có điều gì mà làm cho con không được vui. Thưa Cha con không có bệnh tình gì cả, mấy tháng nay con hơi mất ngủ thế thôi.

Thưa Cha con muốn vân du dạo chơi một chuyến. Để cho tinh thần thoải mái trừ đi căn bệnh mất ngủ. Đế Lai cho phép. Công Chúa liền chọn 2 Hầu Nữ xinh đẹp võ nghệ cao cường vân du ngoạn cảnh. Đến những nơi đẹp nhất của ba Nước Tây - An - Dương của ba anh em nhà Đế Lai. Nhưng Công Chúa vẩn cứ buồn rười rượi. Một hôm Công Chúa tới sông Trường Giang nhìn về Phương Nam đến xuất thần, nghỉ thầm, ta vẩn thường nghe nói Nước Xích Quỷ giàu lắm, nay là Nước Văn Lang lại càng giàu hơn nữa. Ta muốn qua đó dạo chơi cho biết. Bằng nói với hai Hầu Nữ rằng nơi đây Dân Cư cũng khá đông đúc, hai ngươi ở đây chờ ta. Nói xong Công Chúa giục Thần Mã bay qua sông, bay sâu vào đất liền nghe trống hội liền hạ chân xuống.
Tiết xuân vầy cuộc nở Hoa Xuân
Tăm tắp đồng quê cánh cò dừng
Rộn ràng trống hội nơi quê xốm
Xuân tình xuân nghĩa, nước non xuân.

Công Chúa thấy mình vui hẳn lên, vó Ngựa chầm chậm vượt qua bao Làng xốm, cảnh làng quê đẹp như tranh vẽ. Đường lượng uốn quanh uốn khúc như Rồng bay Phụng múa. Nối đuôi bay mãi dài rộng theo đất nước.
Giao thông cầu nối khắp nơi
Liền Châu liền Huyện liền thời xốm thôn
Đường về biển đường lên non
Đường đi Nam Bắc, đường đi về Nguồn
Khắp nơi hội Xốm hội Làng
Tiếng chày giã gạo, tiếng Nàng hát ru
Lụa là quần áo đua chen
Văn Lang cuộc sống Rồng thăng Phụng chầu
Thiên đàng cuộc sống thiên đàng
Ấm no hạnh phúc, đâu còn nghèo xơ
Sống đời sung sướng tự do
Văn Lang cuộc sống lên đò sang tiên.

Phụng Cơ Công Chúa nhìn cảnh giàu sang của Nước Văn Lang. Thái bình an Lạc hội Châu hội Huyện khắp nơi khắp chốn. Công Chúa cảm thấy lòng mình sung sướng. Công Chúa cũng không giải thích nổi tại sao lòng mình lại như thế. Công Chúa thả hồn theo Non Nước Văn Lang. Mặc cho Thần Mã đi đâu thời đi đến khi Công Chúa giật mình thời đã lạc vào thế giới Bồng Lai Tiên Cảnh. Nơi Động Lăng Xương. Nơi đây cảnh vật đẹp như tranh vẽ, hoa soi suối nước, mây soi vóc mình. Đá im tỉnh lặng, suối nước Lung Linh. Gió đi tìm bạn. Cây nghe nhạc rừng.
Động Thiên thác nước phủ màn
Thát reo chim hót gió đàn rừng ca
Hương Hoa thoang thoảng tỏa ra
Ngẩn ngơ chú Bướm cùng là chú Ong
Động thiêng mây lượn giăng giăng
Núi ôm mây khói, mây hằng đèo mây
Cành chen sắc lá hoa lay
Cảnh chen ánh nắng chim bay ngắm nhìn
Cảnh vui người lại hửu tình
Người vui người lại ngắm nhìn cảnh vui.

Công Chúa đang say sưa ngắm nhìn cảnh vật, vô tình đụng cây sáo thần mà sư phụ đã ban cho. Lúc nào cảm thấy vui thời thổi lên. Bài Mai - Lan - Sen - Cúc. Bốn mùa rực cánh hoa. Bài hội ngộ Duyên tình lai láng tràn đầy chan chứa khắp nơi. Công Chúa liền lấy sáo Thần ra thổi bài Mai - Lan - Sen - Cúc. Tức thời Tiên Nữ xuất hiện múa hát theo tiếng sáo Thần của Công Chúa. Thế là cảnh Bồng Lai Tiên giới thực thụ xuất hiện ra.

Nói về Quốc Tổ Hùng Vương mãi mê lo xây dựng non sông Tổ Quốc Văn Lang. Đã 35 tuổi mà chưa có vợ. Vua Hùng Quốc Tổ ra Bắc về Kinh Đô Xích Quỷ chỉ đạo điều hành đất nước. Trên đường đi, bổng nghe tiếng sáo làm cho Vua Hùng quên đi cả mệt mõi. Tâm Hồn nhẹ bổng. Quốc Tổ Vua Hùng bị thu hút bởi tiếng sáo thần kỳ ấy. Liền cho ngựa vượt lên tìm người thổi sáo. Tưởng là tiếng sáo thổi ra ở gần, nào hay đâu ngựa phi nước đại cả nữa giờ mà vẩn chưa tới. Cho đến khi nhìn thấy trước mặt là núi non trùng điệp. Mây phủ giăng giăng, đèo mây lớp lớp, đường lên cõi Trời. Bổng dưng tiếng sáo im bặc. Vua Hùng nghỉ hỏng mất biết đâu mà tìm. Có lẽ ta không gặp được người nầy. Vua Hùng định thôi không tìm nữa nhưng sau đó sáo lại nổi lên. Vua Hùng đã định hướng nhận ra nơi phát ra tiếng sao cách đó không xa chừng hơn 2 dặm. Quốc Tổ Vua Hùng quay lại nói với các quan. Các Khanh chờ ta ở đây. Nói xong Quốc Tổ phi ngựa Thần biến mất đến nơi chổ tiếng sáo phát ra.

Nói về Phụng Cơ Công Chúa, còn thổi sáo thời còn Tiên Nữ bay lượng múa hát. Tiếng sáo dứt thời Tiên Nữ cũng biến mất. Công Chúa nghỉ ta làm sao giữ lại các Tiên Nữ hỏi xem Tiên Nữ từ đâu đến. Thế là Công Chúa lại tiếp tục thổi sáo. Tiên Nữ lại hiện ra bay lượng múa hát. Có lẽ Công Chúa đang chú tâm thổi sáo, không phát hiện ra có người đã đến gần. Thế ra người đến gần người thổi sáo đó chính là Vua Hùng. Quốc Tổ phi ngựa Thần lướt trên rừng cây hạ xuống nhẹ nhàng không tiếng động xuống Quốc Tổ Vua Hùng xuống ngựa đi đến gần người thổi sáo. Tuy là không thấy mặt người thổi sáo, Vua Hùng cũng cảm nhân ra người thổi sáo là một người con gái còn rất trẻ xinh đẹp tuyệt trần, vì tôn trọng người thổi sáo. Vua Hùng thưởng thức yên lặng lắng nghe. Nhìn Tiên Nữ bay lượng múa hát nghỉ là mình đang ở cõi Trời, trên Cung Vương Mẫu.

Nói về Công Chúa đang thổi khúc Mai - Lan - Sen - Cúc bốn mùa rực thắm cánh hoa. Bổng cao hứng Công Chúa thổi luôn khúc Duyên Tình hội ngộ. Tiếng sáo du dương lai láng Tình Duyên, tràng đầy cảm xúc. Vua Hùng không cầm được lòng mình lên tiếng khen, thổi hay quá.

Công Chua nghe tiếng khen giật cả mình quay lại nhìn người khen mình. Thời không khỏi giật mình e thẹn, vì người đối diện oai vệ uy nghi, khôi ngô tuấn tú như Thiên Tiên ở cõi Trời. Công Chúa chưa kịp nói gì. Thời các Tiên Nữ đến chào Công Chúa nói chúng em là Tiên Nữ Cung Vương Mẫu ra mắt Công Chúa. Các Tiên Nữ lại cung kính bái lạy Quốc Tổ Vua Hùng nói. Thiên Vương Cung Tiên Nữ xin ra mắt Chí Tôn Quốc Vương. Quốc Tổ Vua Hùng phất tay nói miễn lễ. Phụng Cơ Công Chúa nghe các Tiên Nữ gọi người trước mặt là Chí Tôn Quốc Vương. Công Chúa nghỉ ngay đến người trước mặt chính là Hùng Vương. Quả tim Công Chúa đập loạn xạ vì người trong mơ đã xuất hiện ra trước mắt. Quốc Tổ Vua Hùng nghe Tiên Nữ gọi người thổi sáo là Công Chúa. Thời Vua Hùng đã nhận ra người con gái thổi sáo là Công Chúa lân Ban. Còn đón ra tên của Công Chúa là Phụng Cơ. Vua Hùng thi lễ Công Chúa rồi hỏi.

Quí Quốc mạnh khỏe không? Công Chúa biết nơi nầy lâu chưa. Công Chúa đi chơi xa đến thế.

Công Chúa đáp lễ nói. Quốc Vương hỏi Quí Quốc nào, nhân lúc vân du đi lạc đến đây. Vua Hùng đáp tôi hỏi thăm Quí Quốc Đế Vương gia Cha của Phụng Cơ. Phụng Cơ nghe nói thế liền biến sắc mặt, mở hai con mắt thật to nhìn Hùng Vương hỏi. Người là Chí Tôn Hùng Vương thật sao? Hùng Vương gật đầu. Phụng Cơ thi lễ nói, người ta đồn rằng, không có cái gì, bí mật gì mà Hùng Vương không biết, nói tới đó Công Chúa bổng đỏ mặt. Như sợ Hùng Vương thấy rõ lòng mình.

Nhìn Phụng Cơ đáng yêu như vậy, Vua Hùng cảm thấy xao xuyến trong lòng. Thật ra Vua Hùng đã cảm mến ngay lúc vừa mới đến nhìn thấy Phụng Cơ. Hai người càng lúc càng tâm đầu ý hợp. Thế là như đôi chim liền cánh, như cây liền cành. Cảnh gió đưa Mây, Mây đưa gió. Ngày thời dạo cảnh Bồng Lai, đêm về Động hàn huyên tâm sự. Thác nước, Động Thiên ru giấc ngủ hai người.
**************


CHƯƠNG 20

PHẦN 1

ĐỨC CỦA BẬC LÀM VƯƠNG

Quả là 1 cuộc sống Thần Tiên, ngoài trần tục. Sống chung với Hùng Vương bảy ngày thật vui vẽ. Phụng Cơ như trẻ lại tăng thêm vẽ xuân xanh. Nhân lúc Vua Hùng vui vẽ. Phụng Cơ nói. Người ta đồn Vua Hùng là Chí Tôn con Trời xuống thế, ai nấy cũng sợ, lại là vì vua hết sức nghiêm minh. Nhưng thật ra thiếp thấy Vua Hùng không những dễ mến, mà còn rất chân thật. Hiền hòa, giản dị, ai cũng thích gần gũi. Thiếp đây cũng chẳng muốn rời xa người.

Quốc Tổ Vua Hùng nói. Thần Thánh cũng là con người. Các Thiên Đế trên Trời cũng có vợ có con. Huống chi ta chỉ là Vua của người phàm tục. Mà Vua cũng chỉ là con người, chẳng khác gì Thiên Hạ muôn dân. Ta nhờ Hồng Đức của Ông Bà Cha Mẹ, lại được Trời ban cho phước lớn. Nên mới được ngày hôm nay.

ÂN Trời Đất. ÂN Cha Mẹ, Ông Bà, Tổ Tiên. ÂN Bá Tánh muôn Dân Đồng Bào. Ân Tổ Quốc những người vì Dân vì Nước. Ta trả nợ bốn ơn ấy quá lớn. Lo báo đáp còn chưa xong. Có đâu cậy quyền ỷ thế làm hại ân nhân mình. Họ vì lời kêu gọi của ta. Họ đã ngã xuống đưa ta lên tận đỉnh vinh quang. Làm Vua chẳng qua là Đại Diện cho Dân ở cương vị tối cao trụ cột. Đi đầu kỉ cương phép Nước, Luật chung. Nếu Vua vì tư riêng mà làm hại cho Dân cho Nước, thời cũng sẽ bị Luật Công phép Nước xử như thường. Nghe những lời lẽ đầy Chân Chính. Đức Độ trùm Thiên Hạ. Là vị Quốc Vương gương mẫu, mẫu mực, đứng đầu Hiến pháp, Luật pháp, Công lý, Đạo Đức. Để cho Quan - Quân - Dân noi theo làm theo. Công Chúa như đã thấy Thái Sơn ngay trước mắt. Liền quỳ xuống nói thiếp có mắt cũng như mù. Thái sơn ngay trước mắt mà không hay không biết. Chí Tôn Quốc Vương không chỉ là Vua của Nước Văn Lang mà còn là Đấng Cứu Thế. Thiếp thật đáng tội chết vì đã lỡ yêu người. Quốc Tổ Vua Hùng đở Phụng Cơ dậy nói. Ta cũng yêu Nàng. Cha Trời, Mẹ Trời còn chung sống với nhau sanh con đẻ cái. Huống chi ta cũng chỉ là con của Trời. Vua cũng cần có Vợ, có con nối dòng dõi duy trì nòi giống con người mà Tổ Tiên có công tạo lập ra. Tình yêu không có tội tình yêu là lẽ sống của con người.

Quốc Tổ Vua Hùng nhìn Công Chúa với cái nhìn đầy nghiêm túc, mặt đối mặt lòng đối lòng rồi hỏi. Công Chúa có ưng thuận làm Hoàng Hậu Nương Nương của Nước Văn Lang Đại Nam chăng? Lời cầu hôn của Quốc Tổ Hùng Vương làm Công Chúa xúc động, xúc động đến mức ngã ngay vào lòng của Vua Hùng như muốn giữ mãi lời cầu hôn đó sợ nó bay đi đâu mất. Hùng Vương thấy Công Chúa tình sâu nghĩa nặng như vậy, tuy gần gũi nhau chưa được bao lâu. Nhưng lúc nào Công Chúa cũng dân hết tình yêu cho Hùng Vương. Vì thế Hùng Vương rất yêu thương Công Chúa.

Quốc Tổ Hùng Vương có biết đâu. Công Chúa yêu Hùng Vương từ mấy năm về trước, hàng đêm mất ngủ, hoa dung tàn tạ đã làm giảm đi vóc dáng yêu kiều của Nàng, làm cho Đế Lai phải lo lắng. Lời cầu hôn của Hùng Vương như cam lộ chảy vào lòng Công Chúa. Trong phút chốc Công Chúa như người khác. Hoa dung đầy đặng tươi thắm rực rỡ. Làm cho cảnh quang bừng lên ánh rực hồng theo rực rỡ của Nàng Công Chúa vốn đã xinh đẹp giờ đây càng thêm xinh đẹp. Quốc Tổ Vua Hùng kinh ngạc nhưng chợt hiểu ra. Tình yêu là thế, chỉ có tình yêu mới làm cho con người thay đổi mau chóng, ánh mắt Công Chúa như trổi dậy vạn mùa xuân, chang chứa lênh láng tình yêu, dâng tặng hết cho người mình yêu. Công Chúa gật đầu ưng thuận chấp nhận lời cầu hôn của Vua Hùng. Nghe Công Chúa chấp nhận lời cầu hôn của mình. Quốc Tổ nghe lòng mình ấm áp nói. Có lẽ đây là nhân duyên tiền định. Cha Trời Mẹ Trời tác hợp đôi ta. Nàng lạc bước đến đây, còn ta thời tìm người thổi sáo, đưa đường dẩn lối cho hai ta gặp nhau. Công Chúa mỉm cười gật đầu. Nhưng sau đó Công Chúa linh cảm là sắp chia tay với người mình yêu. Một nổi buồn lăn lõi vào tâm hồn. Quốc Tổ cũng có cảm giác như thế. Các Tiên Nữ theo hầu Quốc Tổ cũng như Công Chúa, nhìn ánh nắng vàng ngã màu, nắng ốm vì sắp lặng về Tây. Các Tiên Nữ vái lạy hai người rồi nói. Đã gần sắp hết 7 ngày. Chúng em phải về Trời, nói xong các Tiên Nữ đồng biến mất.
Chiều tà vàng ốm bệnh vì đâu
Bệnh sắp lặng non nhớ Hoàn Cầu
Phụng Rồng hội hiệp tình say đắm
Bổng nghe rồm rộp tiếng vó câu
Quan Quân Tướng sĩ kìa đã đến
Đón rước Vua Hùng trễ nải lâu
Phụng Cơ lưu luyến tình nồng ấm
Gió lặng Mây tan nở vạn sầu.

Nói về Quốc Tổ Vua Hùng thấy Quan Quân kéo đến chưa kịp hỏi. Thời các Quan văn võ quỳ lạy tung hô Quốc Vương vạn tuế. Chúng Thần hộ giá đến trễ xin Quốc Vương tha tội. Vua Hùng phất tay nói miễn lễ, miễn lễ. Quốc Tổ Vua Hùng hỏi ai chỉ đường cho các khanh đến đây tìm ra chỗ nầy. Các Quan thưa, Quốc Vương đi lâu quá vắng bóng 7 ngày 7 đêm, chúng Thần lo sợ không biết lành dữ thế nào. Thời có một vị Thiên Thần xuất hiện mách bảo chỉ đường hướng dẫn đến đây.

Công Chúa nhìn thấy các quan tướng Văn Lang, người nào người nấy oai phong lẩm liệt. Đầu tỏa hào quang. Thời nghỉ các người mới đến là các vị Thánh, ở thượng giới xuống. Chừng thấy các Quang Tướng quỳ lạy tung hô vạn tuế. Thời mới tin rằng đó là các Quan Tướng Văn Lang. Công Chúa Phụng Cơ nghĩ, cũng đúng các Quan Tướng Văn Lang phần lớn ở hội Long Vân ra. Các Ngài đã hội ngộ Chân Tâm, Chân Tánh, Minh Tâm kiến tánh hội ngộ Chánh Đẳng Chánh Giác. Các Ngài là Phật - Thánh - Tiên. Mản kiếp trần các Ngài sẽ làm Vua làm Chúa khắp các cõi Trời giáo hóa Thiên Chúng. Theo Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ. Các Quan Tướng Văn Lang là các vị Đại Thánh. Đều hiểu rõ Chí Tôn Quốc Vương. Không ai có thể làm hại được. Các Quan Tướng theo lời dặn của Quốc Tổ ở lại chờ đợi. Đã gần hết 7 ngày, các Quan nhìn về dãy núi trước mặt. Thấy mây lành nơi đó biến mất. Thời biết Vua Hùng Quốc Tổ sắp trở lại. Cũng vừa lúc ấy có một Thiên Thần xuất hiện mách bảo chỉ đường cho Quan Quân đến gặp Vua Hùng. Nên Quốc Tổ Vua Hùng mới hỏi ai chỉ đường cho quan quân tới đây.

Nói về các Quan Tướng khi thấy bên cạnh Quốc Tổ Vua Hùng, có một người con gái cao sang quí phái, sắc nước hương Trời, Hoa Dung lộng lẫy, thời lấy làm mừng lắm. Điều lo lắng nhất của các Quan Tướng là sợ Quốc Vương Chí Tôn không lấy vợ, vì thấy Chí Tôn Quốc Vương tuổi đã lớn mà không nghe Quốc Vương đá động gì đến chuyện lập Quốc Hậu, chỉ lo mãi mê xây dựng đất nước Văn Lang. Thấy các Quan Tướng chăm chú nhìn Phụng Cơ. Quốc Tổ Vua Hùng nói các Quan Tướng ra mắt Quốc Hậu đi. Như một lời xác nhận các Quan Tướng hết sức vui mừng đồng loạt tiến đến trước mặt Công Chúa hành lễ. Chúng Thần xin ra mắt Quốc Hậu Nương Nương. Công Chúa phất tay nói các Quan các Tướng miễn lễ.

Nhìn ánh tà Dương sắp lặng Quốc Tổ Hùng Vương nắm tay Công Chúa nói. Cuộc vui nào cũng đến hồi chấm dứt, sum họp rồi chia ly, chia ly rồi sum họp. Còn duyên nợ thời không ai ngăn cản được chúng ta đến với nhau. Hết duyên hết nợ dù có ở bên nhau cũng cách xa hàng vạn dặm. Chúng ta chia tay nhau tại đây, Nàng về Quí Quốc, còn ta về Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ, xong công việc ta cho người đem lễ vật sang Thành Đế AN đón rước Nàng về Kinh Đô Văn Lang. Công Chúa bịn rịn không muốn chia tay. Bổng nghe tiếng Bạch Long Mã Hí, Công Chúa liền huýt sáo tức thời một con Ngựa Thần xuất hiện. Công Chúa nhìn Vua Hùng chia tay lần cuối, rồi phóng mình lên con Thần Mã. Thần Mã bay lên không, nhắm hướng Bắc bay đi. Quốc Tổ Vua Hùng nhìn theo cho đến khi người ngựa mất dạng. Các Quan các Tướng cùng Quốc Tổ lên đường nhắm hướng Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ xuất phát.

Nói về hai Hầu Nữ của Công Chúa nhìn con sông Trường Giang rộng lớn nước chảy cuồn cuộn, bồ xa bồ xít miệng thời cứ lẩm bẩm. Không hiểu Công Chúa có chuyện gì không, sao mà đi lâu thế gần hết 7 ngày rồi còn gì. Mặt Trời đã bắt đầu khuất núi. Màn đêm buôn lần che khuất tầm nhìn, hai Hầu Nữ chợt nghe tiếng Ngựa hí, trên không tiếng Ngựa hí quen thuộc thì ra Công Chúa đã trở lại, hai Hầu Nữ thở phào nhẹ nhỏm. Nhìn hai Hầu Nữ mừng rơi nước mắt, Công Chúa cảm động nói hai người chờ lâu quá sanh ra đâm lo cho ta phải không? Hai Hầu Nữ lặng thinh gật đầu. Dưới ánh Trăng sáng tỏ ba chủ tớ, vó Ngựa rồm rộp trở lại Thành Đế An. Đêm đã khuya nhưng Thành Đế An vẩn còn sôi động, khác mọi khi, chuyện gì thế, Công Chúa tự hỏi.

Nói về Mẹ của Công Chúa bồn chồn lo âu, sao Công Chúa lại đi chơi lâu như vậy. Nghe tin Công Chúa trở về vội đến hỏi thăm, vừa gặp Công Chúa, Đế Nương liền hỏi. Con đi chơi gì mà đến hơn cả tháng, làm cho Cha Mẹ lo lắng. Con nói con chỉ đi chơi vài ngày nhưng lần nầy sao con đi chơi lâu quá. Dù cho con đến Thành Tây Đế - Đông Đế cũng không lâu đến thế. Tây An Dương là ba nước của ba anh em nhà Đế Lai.

Công Chúa nghe mẹ quở mắng nhưng vẩn mỉm cười, hỏi Mẹ sao Thành Đế An ta vui nhộn thế. Đêm đã khuya mà phố xá vẩn còn đông khách, là chuyện gì thế hở Mẹ. Mẹ Công Chúa trả lời chuyện của con chớ còn chuyện gì nữa. Công Chúa nghe Mẹ nói thế ngơ ngác không hiểu gì cả. Đế Hậu Nương nói Cha con đã ra cáo thị thông báo, là tuyển chọn Phò Mã đã hơn nữa tháng nay rồi. Các Nhân Tài khắp đất trung nguyên, có cả các nước ở Bắc Á. Họ đã đem lễ vật đến cầu hôn. Có hơn mấy mươi Công Tử, Thái Tử người nào người nấy gia thế uy phong, tài năng xuất chúng. Cha con đã nhận hết lễ vật của họ rồi. Nhìn vào lễ vật cầu hôn cũng đánh giá được họ toàn là những gia thế giàu có. Công Chúa nghe xong mặt liền biến sắc, kinh hoàng. Công Chúa nói sao Cha Mẹ không đợi con về, để hỏi con có bằng lòng lấy chồng chưa đã chứ. Đế Hậu Nương Nương nói còn hỏi gì nữa, con quên rồi sao, hôm con mười tám tuổi. Cha con gã con có Chồng chọn phò mã. Con nói để con lựa chọn. Cha con nói con lựa chọn đến chừng nào. Con nói đến 26 tuổi. Cha con đã nổi giận đùng đùng không chấp nhận lời đề nghị của con. Vì con gái đến tuổi ấy thời còn gì là tuổi thanh xuân nữa. Mẹ khuyên can mãi, Cha con mới chấp nhận lời yêu cầu của con. Nay con đã 27 tuổi rồi còn gì. Vì thế mà Cha con quyết định, định đoạt hôn sự cho con. Ngày mai con phải lên đường theo Chồng. Công Chúa hốt hoảng la lên, gấp đến thế sao. Đầu óc Công Chúa rối loạn ta biết phải làm sao đây. Đế Hậu Nương Nương nói, lúc Mẹ có Chồng mới 16 tuổi, nay con 27 tuổi, thời đã quá muộn màng. Lần nầy con không có lý do gì để mà từ chối nữa đâu. Sau khi Cha con tuyển chọn nhân tài xong chọn ra mười người và con sẽ chọn một trong mười người đó lấy làm Chồng phò mã. Và đêm ấy Công Chúa trằn trọc mãi, ta phải làm sao đây. Trốn ư, nhưng bằng cách nào. Ta là Công Chúa mà làm thế sao được. Rồi danh dự của Cha ta thì sao. Danh dự của một Đế Vương uy lực nhất Trung Nguyên. Công Chúa càng nghỉ càng rối bời.

Ông Mặt Trời đã dậy, đánh thức quê hương chuyển mình một ngày mới. Tiếng chim ríu rít ca hát nhảy múa líu lo. Nhưng Công Chúa lòng đầy nặng triểu. Tiếng Trống Công Chúa lại hốt hoảng, tiếng trống mở hội tuyển chọn nhân tài. Người từ các ngã đường lũ lược kéo về Thành Đế AN càng lúc càng đông. Tiển đưa Công Chúa xuất giá theo Chồng. Chỉ trong vòng một đêm Công Chúa gầy đi rõ. Mặt Trời đã lên cao mà Công Chúa vẩn nằm ỳ không muốn dậy mà có dậy cũng không nổi, ráng gắng gượng lắm Công Chúa mới ngồi lên. Tiếng trống tuyển chọn nhân tài đã kết thúc. Đế Lai đã chọn ra được mười người. Công Chúa thét lên thế là hết. Bổng Công Chúa nhớ lại lời nói của Quốc Tổ Vua Hùng. Còn duyên còn nợ thời không ai ngăn cản được chúng ta đến với nhau. Công Chúa đang u sầu bổng tươi tắn hẳn lên, Công Chúa đã đi đến một quyết định. Công Chúa nói với hai con Hầu Nữ, nội trong ngày nay ta phải xuất giá theo Chồng. Mà Cha ta đã giao quyền cho ta quyết định lựa chọn, một sự lựa chọn cuối cùng cho dù người đó là ai.
Công Chúa liền ngâm bài thơ:
Nhớ buổi kề nhau cặp Phụng Rồng
Thắm tình thắm nghĩa thắm non sông
Nở nụ tầm xuân đời xanh biếc
Rực thắm tình yêu rực sắc hồng
Đôi tim hòa nhịp cùng chung lối
Thỏ dậy nhớ Tà bóng đêm đông
Đôi quả tim chung giờ chia cách
Bắc Nam vời vợi Phụng nhớ Rồng.

Tiểu Xuân nghe bài thơ Công Chúa ngâm hai con mắt sáng rực lên. Công Chúa, Công Chúa có người yêu rồi sao? Công Chúa gật đầu, hai Hầu Nữ Tiểu Xuân, Tiểu Hạ kinh ngạc hỏi. Người ấy là ai thế? Công Chúa thở dài nói người ấy là Hùng Vương Vua Hùng nước Văn Lang. Tiểu Hạ, Tiểu Xuân như không tin ở lỗ tai mình. Nhưng đây là sự thật, do miệng Công Chúa nói ra. Tiểu Xuân, Tiểu Hạ nhìn Công Chúa xuất thần, như đang ôn lại những giây phút quí giá mà Công Chúa không thể nào quên được. Tiểu Hạ nói với Tiểu Xuân, thời gian quá gấp biết làm sao đây. Tiểu Xuân nói ở vào tình thế nầy. Tự mình xuất giá theo chồng về với Hùng Vương. Nước Văn Lang là Đất Nước giàu có hùng mạnh. Không có một Đất Nước nào sánh kịp. Công Chúa làm Quốc Hậu Nương Nương Văn Lang. Thời không uổng phí tài sắc Công Chúa. Không Nước nào dám động đến Nước Văn Lang đâu. Một sự lựa chọn, không có sự lựa chọn nào hơn được. Công Chúa nhìn Tiểu Xuân kinh ngạc, ngươi hiểu ý ta. Tiểu Xuân sợ hãi đáp. Công Chúa tha cho Tiểu Nữ, Tiểu Nữ chỉ suy lòng Tiểu Nữ mà thôi. Công Chúa nói ngươi thông minh như vậy, ta dẩn ngươi theo. Tiểu Hạ lên tiếng còn Tiểu Hạ thì sao? Công Chúa nói cả ngươi nữa. Hai Hầu Nữ mừng quá liền tạ ơn Công Chúa. Công Chúa nói Tiểu Xuân, dạ có Hầu Nữ. Ngươi tìm cách tới chuồng Ngựa chửng bị sẳn, hết sức cẩn thận đừng làm lộ chuyện. Công Chúa Phụng Cơ tìm gặp mẹ nói lên sự yêu cầu. Là đến lúc chiều tà gần đến lúc hoàn hôn thời con mới chọn phò mã. Đế Lai chấp nhận lời yêu cầu con gái.

Nói về Quốc Tổ Hùng Vương vừa đến Kinh Thành Xích Quỷ, thời đã nghe các Quan các Tướng ở đây xầm xì về Công Chúa con của Đế Lai. Ba Nước Tây  An  Dương ba anh em nhà Đế Lai chửng bị cho ngày vui Công Chúa Đế Lai chọn Phò Mã. Quốc Tổ Vua Hùng nghe tin ấy không lấy làm chi lạ. Đến khi nghe Công Chúa, ngày nay chính là ngày xuất giá thời Quốc Tổ giật mình, hỏi lại về câu chuyện của Công Chúa.

Các Quan kể, nghe nói Đế Lai có cô con gái tài sắc nổi tiếng, danh vang khắp Nam, Trung, Bắc. Nhưng phải nổi Công Chúa Phụng Cơ rất kén chọn, nay Công Chúa đã 27 tuổi mà vẩn chưa chọn được người vừa ý. Vì sự lựa chọn của Công Chúa quá khắc khe, đã làm cho Đế Lai bực bội. Có lẽ Đế Lai thấy con càng ngày càng lớn tuổi, xuân bất tái lai, xuân người tuổi thanh xuân đi qua, không bao giờ trở lại. Nên Đế Lai tự quyết định cuộc hôn nhân nầy. Ngày nay là ngày Công Chúa phải chọn lấy phò Mã, ngày quyết định theo chồng. Quốc Tổ nghe xong không nói gì, chỉ lo phê phán tấu chương do các Châu các Bộ gởi về. Quốc Tổ cho người chửng bị một số lễ vật để sẳn. Quốc Tổ phê tấu chương, điều hành chỉ Đạo mau chóng, chưa đầy một ngày là xong tất cả. Nhìn Mặt Trời đã ngã về Tây. Quốc Tổ gọi Quốc Sư Thục Lục đến. Quốc Sư tuy hơn trăm tuổi. Nhưng vẩn còn đầy sự sống, sắc thái minh mẩn. Quốc Sư tham kiến hành lễ rồi nói. Quốc Vương cho mời Thần đến có điều chi dạy bảo.

Quốc Tổ Hùng Vương nói. Nước Xích Quỷ tuy chuyển thành Nước Văn Lang. Nhưng Nước Xích Quỷ vẩn còn tồn tại mãi trong tâm hồn của người Dân Âu Việt, Lạc Việt không bao giờ phai. Quốc Sư của Nước Xích Quỷ, mãi mãi là Quốc Sư của Nước Xích Quỷ. Quốc Sư thay mặt ta điều hành đất nước. Kinh Đô Xích Quỷ Nam Kinh là Kinh Đô Quốc Phòng. Kinh Đô bảo vệ Lãnh Thổ Nước Văn Lang. Còn Kinh Đô Văn Lang là Kinh Đô Kinh tế.

Nói xong Quốc Tổ Hùng Vương trao gươm lịnh cho vị Quốc Sư tài năng Lục Tục. Quốc Sư Lục Tục nhận gươm lịnh mà rơi nước mắt. Quốc Tổ Vua Hùng luôn luôn sống theo Đạo nghĩa uống nước nhớ nguồn ăn quả nhớ người trồng cây. Quốc Tổ Vua Hùng trao gươm lịnh xong nói. Quốc Sư thay ta điều hành Đất Nước Xích Quỷ theo giai đoạn mới. Nếu không có việc gì nghiêm trọng khó giải quyết. Thời Quốc Sư có quyền quyết định tất cả.

Quốc Sư Lục Tục nói. Được làm con Dân của Quốc Vương là may mắn phước lớn lắm rồi. Huống chi là Quốc Vương không chê tuổi già còn giữ chức Quốc Sư thay quyền Quốc Vương lo cho Dân cho Nước. Thời còn biết nói gì hơn. Thần chỉ biết hết lòng lo cho Dân cho Nước, phó thác của Quốc Vương.

Nhìn Mặt Trời sắp lặng về Tây. Quốc Tổ nhớ đến Công Chúa Phụng Cơ. Quốc Tổ liền chọn số Quan Tướng. Thời trên không trung xuất hiện một đám mây. Cao Tổ từ trên đám mây bay xuống trước mặt Vua Hùng hành lễ xong rồi nói Chúng Thần đến trể xin Chí Tôn Quốc Vương tha thứ, sánh lễ Cầu Hôn cũng như kiệu rước Quốc Hậu Nương Nương đã có đủ. Có các Tiên Nữ từ Cung Vương Mẫu xuống đón rước Phụng Thiên Vương Mẫu về Kinh Đô Văn Lang. Các Quan Tướng theo hộ giá Quốc Tổ giờ đây mới hiểu. Người con gái gặp ở động Lăng Xương chính là Phụng Thiên Vương Mẫu đầu thai thành Phụng Cơ Công Chúa. Quốc Tổ biết thời giờ đã đến liền phất tay một cái tức thời lễ vật cùng những người đã lựa chọn bay lên Mây.

Nói về Công Chúa đã quyết định tự mình xuất giá. Cỡi Thần Mã bay về Nam đến với Vua Hùng rồi tính sau. Mặt Trời sắp lặng. Trên Đền cao Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi, ngồi cách xa giám sát Công Chúa lựa chọn phò mã. Tiếng nhạc nổi lên như báo hiệu Công Chúa xuất hiện. Thế là Cánh Hoa rực rỡ từ từ bước ra. Làm cho cả cảnh quan rực rỡ theo. Sự trằm trồ không ngớt, có người cho rằng còn đẹp hơn cả Tiên Nữ Hằng Nga. Theo hầu Công Chúa là hai hầu nữ cũng xinh đẹp tuyệt trần. Điều khác lạ là hai Hầu Nữ không yểu điệu chút nào. Mà là hai Nữ Tướng, chửng bị cho cuộc chiến đấu. Điều nầy làm tăng thêm vẽ quí phái của Công Chúa. Mười Chàng Thái Tử vừa nhìn thấy Công Chúa, thời quả tim như muốn ngừng đập.

Tiếng trống hồi thứ nhất. Mười Thái Tử đứng cách xa nhau. Để cho Công Chúa lựa chọn. Người ta thấy Công Chúa lựa chọn. Người ta thấy Công Chúa không để ý gì đến mười chàng Thái Tử kia. Mà đang chấp tay cầu nguyện. Công Chúa vái. Hùng Vương cái gì. Thời nghe trên không, tiếng nhạc quen thuộc trổi lên. Thời biết đó là tiếng nhac của các Tiên Nữ. Công Chúa nhìn lên đám Mây, thời thấy Quốc Tổ Hùng Vương xuất hiện. Công Chúa mừng quá sít chút nữa thời hét lên nhưng kèm hảm lại được. Hai Hầu Nữ nhìn thấy người đàn ông mặt áo Long Bào uy nghi tuấn tú lại nhìn thấy Công Chúa mừng rơi nước mắt. Thời đoán biết người mặt áo Long Bào kia chính là Vua Hùng Quốc Vương Đại Nam Nước Văn Lang. Cuộc diện thay đổi hẳn khi Quốc Tổ Vua Hùng xuất hiện. Sánh lễ dâng lên chật cả sân, hào quang Châu Báu ngọc ngà lấp lánh. Còn nhiều hơn số Châu Báu những người đến cầu hôn. Nhìn thấy số Châu Báu Ngọc Ngà. Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi lóa cả mắt. Quốc Tổ Vua Hùng bước tới người ngồi chính giữa thưa Tuy con đến trễ nhưng cũng đúng lúc, đúng lễ nghi mà nhạc phụ, Quốc Vương đã đề ra. Con xin đón rước Công Chúa về Nước Văn Lang. Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi nghe ba tiếng Nước Văn Lang thời giật cả mình. Hết bất ngờ nầy sang bất ngờ khác, chưa biết xử trí ra làm sao.

Nói về Công Chúa chỉ chờ có thế liền chạy đến nắm lấy tay Quốc Tổ Vua Hùng. Quốc Tổ đưa Công Chúa lên kiệu, kiệu Phụng bay lên Mây. Công Chúa liền húyt sáo. Con Ngựa Thần từ trong chuồng phóng ra bay lên mây theo Công Chúa. Chừng đến khi nghe mười chàng Thái Tử, hốt hoảng la lên cướp cướp, thời đám mây đã mờ dần trong ốm nắng của hoàng hôn. Đế Lai nói ý Trời, tất cả là ý Trời. Đế Hậu nói ý trời cái gì. Hai đứa nó đã yêu nhau từ lâu rồi. Đế Lai ngơ ngác nhưng rồi cũng làm thinh. Đế Lai tự nói một mình, nếu thế thời càng hay chớ sao. Đế Hậu Nương Nương nói. Còn mười Chàng Thái Tử kia thời giải quyết sao đây? Đế Lai nói còn giải quyết gì nữa. Cả mười người mà không giữ nổi Công Chúa, thua một người, để cho người ta cướp mất, còn thưa kiện gì nữa.
**************


CHƯƠNG 20

PHẦN 2

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ HIỆN ĐẠI

Từ ngày Công Chúa về Đất Đại Nam Nước Văn Lang, trở thành Vương Mẫu Quốc Hậu. Thấy Đất Văn Lang quả nhiên trù phú, thảo nào ai cũng muốn chiếm cho bằng được. Nhất là Đất Lãnh Nam, sông núi kỳ bí ngọa Hổ tàng Long. Hổ nằm Rồng ẩn, khí Thiên sông núi tỏa lên như bảo bọc cho con dân Âu Việt, Lạc Việt. Quốc Hậu Nương Nương lấy làm mừng và biết rằng Con Rồng Cháu Tiên sẽ làm chủ Địa Long nầy. Tuy là thân Quốc Hậu Chí Tôn Thiên Hạ nhưng lại coi Dân thương Dân như con ruột của mình. Nhân từ độ lượng ít ai hơn.

Quốc Hậu Nương Nương giúp Chồng mở mang bờ cõi, xây dựng Đất Nước. Dạy cho hàng nữ lưu, nâng cao tay nghề chăn Tằm dệt Cửi, sáng tạo ra nhiều mẫu mã gấm vóc lụa là, màu sắc rực rỡ. Quốc Hậu Nương Nương là phụ nữ hiện đại, giúp Chồng từ việc nhà cho đến cả việc Nước, có một không hai ở thời đại phong kiến Thần giáo, thời Chủ Nghĩa Độc Quyền Vua Chúa. Đất Nước Văn Lang là Đất Nước đổi mới văn minh, ở lãnh vực xã hội, những gì Nam giới làm. Thời phụ nữ cũng được phép làm. Đó là Hiến pháp, Luật pháp Văn Lang cho phép. Đó là lĩnh vực xã hội. Còn lĩnh vực gia đình thời lại một chuyện khác. Thuộc về Đạo Luật Thiên Chức mà Đức Cha Trời đã ban. Đạo làm Chồng, làm Vợ. Đạo làm Cha, Đạo làm Con. Đạo làm Anh làm Chị. Đạo làm em.
((Xem Bộ Kinh Nhân Luân Hiếu Nghĩa Sẽ Rõ)).

Thời đại mà phụ nữ làm được tất cả thời cuộc sống gia đình, xã hội, Tổ Quốc, mới tiến bước trên con đường văn minh dân giàu nước mạnh. Tất cả mọi sự hoạt động, mọi sự phát triển tiến lên xây dựng quê hương đất nước thời phải có bàn tay của Nữ giới đóng gốp công lao. Một Đất Nước giàu mạnh là một Đất Nước có nhiều tần lớp phụ nữ tài đức, vừa đảm đang được việc nhà, vừa đảm đang việc Nước. Đảm đang nhiều trọng trách. Những phần ngành quan trọng của Đất Nước. Trên mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Có cả những địa vị đỉnh cao của xã hội. Nhưng phải ở lĩnh vực nhân quyền dân chủ, được Công Chúng tín nhiệm bầu xét mới hợp lệ. Theo Hiến pháp, Luật pháp cho phép của Nước Văn Lang. Cạnh tranh Bình Đẳng hợp pháp giữa Nam giới và Nữ giới. Còn tiến thân theo kiểu mưu mô thủ đoạn. Cậy thế ỷ quyền thời là mối họa tai hại cho đất nước mà thôi.

Một Dân Tộc văn minh, không chỉ có Nam giới là tất cả. Mà có cả giới Nữ cọng tác. Nam - Nữ. Nam Giới, Nữ Giới song hành, phát triển Đất Nước, xây dựng Tổ Quốc, bảo vệ Đất Nước, chống giặc ngoại xâm. Đó là tính ưu việt của Hiến pháp, Luật pháp Văn Lang. Mà các nước khác ở vào thời đại ấy không bao giờ có. Không phải sự ngẩu nhiên có được sự Độc Lập kéo dài ở Niên Đại Hùng Vương 2.622 năm ở thời giữ nước. Cọng thêm 79 năm ở thời dựng Nước là 2.701 năm. Trên toàn thế giới không có Niên Đại nào ở vào thời kỳ ấy, giai đoạn ấy, kéo dài Độc Lập Niên Đại lâu đến thế. Sự Độc Lập kéo dài Niên Đại Hùng Vương đều có nền tản cơ sở của nó. Nếu không vì có sự thất truyền nền Văn Hiến Quốc Đạo Văn Lang thời Dân Tộc Việt Nam đâu phải chịu cảnh nô lệ hơn nghìn năm.

Hiến Pháp Văn Lang là Hiến Pháp bình đẳng. Bình Đẳng Nam giới, Nữ giới. Không có sự trọng Nam khinh Nữ hay trọng Nữ khinh Nam. Một xã hội mà trọng Nam hơn trọng Nữ. Hay trọng Nữ hơn trọng Nam. Thời xã hội đó chưa phải là xã hội văn minh. Xã hội Văn Lang là xã hội Hiến pháp, Luật pháp, Công Lý mới thật sự là Vua. Một Pháp Vương Hiến pháp không thay đổi trước sau như một. Mãi mãi trường tồn theo thời gian, song song với Luật pháp và Công Lý. Con đường hôn nhân giữa Nam và Nữ ở lĩnh vực tự do, tự nguyện. Nam, Nữ có quyền được lựa chọn người mình yêu và sự chung thủy vẩn được tôn vinh ca ngợi hàng đầu, báu vật vô giá của tình yêu và Quốc Hậu là mẩu mực cho sự tình yêu chung thủy, thủy chung ấy.
**************


CHƯƠNG 20

PHẦN 3

LỜI DI CHÚC
TRƯỚC KHI TỪ BIỆT CÕI TRẦN CỦA
QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG

Cuộc đời vì Nước, mãi vì Non
Trăm tuổi có dư chưa an nhàn
Kia Kìa Dân Chúng ôi còn khổ
Vẩn còn hộ đói khổ lầm than.

Quốc Tổ Vua Hùng lúc nào cũng lo cho Dân cho Nước bận rộn cả đời, không có thời gian an nhàn. Dân vui là Quốc Tổ vui. Dân khổ là Quốc Tổ khổ, sự sống của Dân là sự sống của Quốc Tổ. Nhìn Dân Chúng no cơm ấm áo thời lòng ta vui sướng biết bao. Dân Chúng khổ lẽ nào ta sướng thời còn chi Đức tánh thương Dân. Suốt 79 năm ở ngôi Quốc Vương. Quốc Tổ Vua Hùng không những lo cho dân giàu về vật chất mà còn lo cho Dân giàu về Đạo Đức Chính Nghĩa tinh thần. Vì Quốc Tổ hiểu rõ sự sống của con người là sự sống của Linh Hồn, lẩn sự sống của thể xác, vật chất nuôi thể xác, đạo lý nuôi Linh Hồn. Nhà Nước Văn Lang là Nhà Nước Đạo Đời là một Đạo trong Đời, Đời trong Đạo. Tốt Đời thời đẹp Đạo. Tốt Đạo thời đẹp Đời. Tinh Thần vật chất song đôi tiến tới Văn Minh, xã hội Chân Thiện mỹ, xã hội Tiên Thánh, xã hội Dân giàu Nước mạnh, Nhân Quyền Dân Chủ Công Bằng Văn Minh.
Kìa Non Nước thay da đổi thịt
Giàu từng ngày rừng rực ấm no
Đời nở hoa, ôi mùa xuân Tổ Quốc
Xuân tâm hồn, xuân truyền thống Ông Cha.

Cuộc sống xã hội Văn Lang, không những ấm no, mà còn tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do đua tài đua sắc, làm giàu đẹp cho xã hội, làm giàu đẹp cho Nước cho Non. Cho bản thân, gia đình rạng danh dòng họ.
Đàn Chim tung cánh tự do
Bay trong hạnh phúc ấm no thái bình
Xuân Non xuân Nước xuân Tình
Xuân Trời xuân Đất xuân mình xuân ta.

Nước Văn Lang ngày càng mở rộng. Dân chúng khắp nơi xin đến định cư, làm ăn sinh sống càng về sau càng đông.
Đất lành Chim đậu có sai chi
Văn Lang cuộc sống thật diệu kỳ
Thiên Đàng Cực Lạc nơi trần thế
Rực rỡ Trời Nam, rực sử thi.

Do tài năng Đức Độ. Tận tâm tận lực lãnh Đạo đất nước. Đưa Đất Nước Văn Lang càng ngày càng ấm no phồn thịnh khí thế bừng lên sức sống mảnh liệt mạnh mẽ, sáng tạo ra nhiều gấm vóc lụa là màu sắc rực rỡ. Nhất là nghề rèn đúc tinh xão, hoa văn sống động, phải kể đến nền Văn Minh lúa nước, trồng trọt, chăn nuôi có một không hai, không có một đất nước nào sánh kịp.

Quốc Hậu ở với Quốc Tổ 5 năm thời sanh con, sanh ra con đàng cháu đống. Con trai lớn Lâm Lang. Hùng Quí Lân, sau nầy lên ngôi Quốc Vương thay cha trị vì Thiên Hạ. Mùa xuân sắp qua, mùa hạ sắp đến gần. Quốc Tổ Hùng Vương triệu tập hết thảy quần Thần Dân Tướng. Vào ngày 10 tháng 3 năm ẤT MÙI. Ngày mà Quốc Tổ từ biệt cõi trần.Trả lại xác trần về Trời. Ngày ấy cảnh vật buồn hiu. Hoa đang khoe sắc đi vào héo rụng. Chim chẳng muốn bay, thú chẳn muốn ăn. Như linh cảm Mặt Trời Trí Huệ, Chánh giác sắp lặng. Đấng đại từ đại bi. Lập Quốc, trị Quốc bằng con đường Chánh giáo. Đạo Pháp Quốc Đạo Chính Nghĩa Dân Tộc.

Trên bực cao Quốc Tổ vẩn uy nghi như ngày nào. Chiếc áo Rồng lung linh sống động như muốn nghe từng lời Quốc Tổ. Quân Thần Dân chúng tuy không tiếng khóc nhưng nước mắt cứ rơi rơi mãi ước nhầm cổ áo. Lời Quốc Tổ trầm hùng van dội khắp Núi Sông đều nghe thấy từng lời.

Hỡi Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt. Từ khi Quân Dân theo ta dựng nước đến nay 84 lần xuân đến 84 lần xuân đi. Với năm tháng dài như thế, tình Quân Dân như Cá với Nước biết bao nhiêu là tình nghĩa đậm đà thắm thiết, không thể nói vài lời cho hết được. Giờ đến lúc ta phải chia tay với Quân Dân mà về Trời. Vì Đức Cha Trời đã gọi, ta không thể ở lại chốn nhân gian lâu hơn nữa, với lý do là vì ta Chí Tôn Thiên Đế chủ quản các tần Trời. Ngôi Chí Tôn Thiên Đế, không thể trống mãi được. Trước khi ta về Trời ta có đôi lời tâm huyết truyền dạy căn dặn Quân Dân.

Khi ta về Trời, thời Quân Dân phải hết lòng thờ phụng Đức Cha Trời Lạc Long Quân cùng Địa Mẫu Âu Cơ. Hai Đấng tối cao Linh Thiên vũ trụ. Đấng Cha Trời là Đấng Chủ Quản thế giới, Linh Hồn vũ trụ. Đấng Công Bằng vũ trụ cũng là Đấng giáng họa, ban phước cho mỗi Dân Tộc, cho mỗi Đất Nước. Đấng tối Đại Linh Thiên, không có Đấng nào Linh Thiên hơn nữa. Bách Tộc Văn Lang Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt phải đặc hết niềm tin vào Đức Cha Trời, sẽ được Đức Cha Trời đùm bọc che chở, khai mở trí huệ, giữ vững chủ quyền, Độc Lập hàng nghìn năm. Nếu Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt xao lảng niềm tin tôn kính Đức Cha Trời nghe theo tà Ma ngoại Đạo. Thời Đất Nước sẽ đi vào Đại Loạn. Nền Quốc Đạo mất. Thời Dân Tộc Văn Lang trở thành Dân Tộc nô lệ, ngoại xâm sẽ từng bước từng bước nuốt lần nuốt lần nước Văn Lang. Nhất là những phần đất đai phía Bắc Nước Văn Lang. Không những mất lần đất đai mà còn mất lần Dân Tộc Văn Lang, ở những vùng đất mà giặc ngoại xâm đã nuốt lần nuốt lần đất Văn Lang. Mỗi lần con cháu Văn Lang tạo ra cảnh nồi da nấu thịt, là mỗi lần ngoại xâm, xâm lấn biên cương hàng chục dặm đất đai.

Địa Mẫu Âu Cơ, Mẹ Trời là Chúa Tể cai quản thế giới vật chất vũ trụ. Sự giàu của mỗi Bộ Lạc, Bộ Tộc, đều nhờ vào Quyền lực của Mẹ Trời ÂU CƠ. Đức Mẹ Âu Cơ là Đức Mẹ tối Linh Thiên vũ trụ, chỉ cần cảm nghỉ đến Mẹ, là Đức Mẹ chiếu cố phù hộ ngay. Những phát minh sáng kiến trong khoa học, phần lớn là do Đức Cha Trời hộ lực khai thông. Thành tựu khoa học vật chất. Cũng thành tựu trong sự tu luyện ngộ Đạo, Đắc Đạo, Thành Đạo. Đều có bàn tay nân đở của Đức Cha Trời, Mẹ Trời. Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ.

Ta sanh xuống chốn nhân gian, là để nói rõ nguồn gốc vũ trụ. Nguồn gốc Linh Hồn, nguồn gốc Nhân Loại, nguồn gốc Cha Trời, Mẹ Trời và Quyền năng tối cao của Đức Cha Trời Mẹ Trời. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng chỉ là con Cháu của Đức Cha Trời Mẹ Trời mà thôi. Ta đem lời dạy của Đức Cha Trời Lạc Long Quân, lời dạy của Địa Mẫu Âu Cơ truyền xuống chốn nhân gian. Để cho Nhân Loại trở về với Cội với Nguồn, đến với Đấng ông Cha. Đấng tạo lập lên vũ trụ sanh ra Nhân Loại con người. Ta làm theo lời dạy của Đức Cha Trời, lập lên Đất Nước Văn Lang, để sau nầy con Cháu Văn Lang làm chủ Địa Long hình chữ S. Thánh Địa Lảnh Nam Linh Thiên siêu việt nầy, là chỗ khai lập Đại Đạo Đại Đồng sau 5 nghìn năm nữa. Cũng là Thánh Địa Linh Thiên bảo bọc Nhân Loại con người sống sót ở cuối tiểu kiếp thứ 9 sang qua tiểu kiếp thứ 10.

Nay ta giao Địa Long Thánh Địa nầy cho Quân Dân Bách Việt gìn giữ. Trong tương lai dù cho gặp hoàn cảnh khó khăn nào. Dù cho thịt nát xương tan, cũng phải giữ gìn không để mất, sau năm nghìn năm ta sẽ trở lại chuyển pháp luân lần hai Thiên Ấn trở lại Thiên Bút ra đời. Những Linh Hồn thật sự vì Non vì Nước Hồn Trung Kiên. Hồn Tiết Liệt, Nam Nữ. Ta sẽ cho Chư Thiên tiếp rước Linh Hồn về Trời, sống trên các cõi Châu Báu Thiên Đàng Cực Lạc. Chỉ trừ những kẻ đấu tranh cho bè Đảng bè phái. Không phải vì Non Sông Tổ Quốc, không phải vì Đồng Bào Dân Tộc. Mà chỉ vì quyền lực của bè Đảng, vì tư lợi riêng làm hại Đồng Bào Dân Tộc.

Những kẻ tôn thờ ngoại xâm. Tôn thờ ác Đạo, vùi lấp truyền thống Dân Tộc. Bỏ Cội bỏ Nguồn. Dù trung hiếu cho cách mấy. Tiết Liệt cho cách mấy. Cũng chỉ là trung với bè Đảng mà thôi. Và những kẻ ấy là những anh hùng lạc Đạo sa đọa ngập chìm trong con đường ác. Mất Thân người khó mà đầu thai trở lại làm người, sự trung thành ấy chỉ đưa nhau xuống Địa Ngục. Theo Luật nhân quả mà thọ lảnh quả báo.

Sau năm nghìn năm nữa. Từ Chủ Nghĩa Độc Quyền sẽ chuyển sang Chủ Nghĩa Đa Nguyên. Chủ Nghĩa Đa Nguyên chuyển hóa lên Chủ Nghĩa Đại Đồng. Thời Đại của Chủ Nghĩa Đa Nguyên là thời đại Dân Chủ nhân quyền Đa Đảng sống theo Hiến pháp, Luật pháp, khác với Chủ Nghĩa Độc Quyền sống theo Hiến pháp ngụy tạo Vua Chúa. Tuy là thời kỳ Đa Đảng. Nhưng Đảng nào hết lòng vì Dân vì Nước sẽ được Nhân Dân ủng hộ, không đánh mất truyền thống Dân Tộc, phát huy truyền thống Dân Tộc. Thời Đảng đó gọi là Chánh Đảng, sẽ được Cha Trời Mẹ Trời gia hộ. Hồn Thiên Dân Tộc, Khí Thiên sông núi ủng hộ che chở. Ý Trời đã thế, thời xã hội Nhân Loại sẽ chuyển theo Huyền Cơ theo Thiên Ý Cha Trời. Đó là ta nói năm nghìn năm nữa mới tới. Còn hiện tại bây giờ. Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt phải tiến lần về Nam, đường Núi, đường Sông, đường Đồng Bằng, đường Biển. Cho đến khi hoàn toàn làm chủ Địa Long mới thôi. Hôm nay hình thể bụng Địa Long đã lộ dần. Do lượng phù sa hàng năm, do Nước mang đi bồi đắp lần ra biển. Trời sanh khí. Đất sanh Linh. Khí - Nước - Đất giao hóa khởi hình, anh hùng Hào Kiệt mọc lên như nấm. Con Cháu mai sau Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt, mấy mươi Dân Tộc anh em trổ hoa trí tuệ. Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng như vần Thái Dương tỏa sáng khắp trời Đất, khắp Năm Châu Bốn Biển.

Hôm nay Nhân Loại toàn thế giới tuổi thọ trung bình là 110 tuổi, thọ là 130 tuổi yểu là 90 tuổi. Đó là nói người thường không tu tiên, tham thiền luyện khí nhập định. Còn những bật tu thiền luyện khí nhập định. Thời tuổi thọ kéo dài đến vài trăm năm. Sau năm nghìn năm ta trở lại chốn Nhân Gian. Lúc ấy Nhân Loại tuổi thọ trung bình là 60 tuổi, thọ 80 tuổi, yểu 40 tuổi. Và chỉ còn năm nghìn năm nữa là hết tiểu kiếp thứ 9. Chuyển sang qua tiểu kiếp thứ 10. Càng về cuối tiểu kiếp. Động Đất khắp nơi. Nước dân khắp chốn. Mưa to bão lớn kinh hoàng. Nhiệt độ tăng cao thiêu đốt. Nhiệt độ hạ thấp sự sống khó mà tồn vong, số phận của Nhân Loại khó mà tồn tại được nhiều. Những Linh Hồn tiến hóa đến chỗ thông Linh hướng Thiện. Theo con đường Đạo Đức Chính Nghĩa, sẽ được tiếp rước siêu sanh về Trời. Thiện Ác siêu đọa rẽ đôi. Những Linh Hồn còn nhiều ác tính, đều đọa lạc về cõi âm phủ, sống trong thế giới tối tăm đói khổ. Chờ đợi hàng triệu năm, Nhân Loại ở tiểu kiếp thứ 10 sanh con đẻ cháu đông. Thời mới có dịp đầu thai trở lại dương gian để làm người, tiếp tục cuộc hành trình tu luyện tiến hóa Linh Hồn.

Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt. Bách Tộc Văn Lang. Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ. Nền Hiến pháp Văn Lang là thuyền lớn, cầu lớn. Bắc qua sông mê, đến bờ giác, ai cũng có thể đi được. Qua sông mê không mấy khó khăn phải nói là rất dễ dàng. Đời trong Đạo, Đạo trong Đời, theo bước Cha ông trở về vũ trụ.

Hỡi Quân Dân Bách Tộc Văn Lang. Chúng ta là dòng giống Tiên Rồng. Con Cháu của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Bổn phận con Cháu Tiên Rồng là đẩy lùi cái ác duy trì cái thiện, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời, Mẹ Trời. Cha Trời đã dạy chúng ta tiến về Nam làm chủ Địa Long. Cha Trời đã kêu ai thời người ấy dạ. Cha Trời đã cho ai thời người ấy hưởng, vì giang sang vũ trụ nầy là do Tổ Tiên, Cha Trời tạo lập. Ba Con Chúa Quỷ chúng đã chiếm giữ Địa Long hàng triệu triệu năm. Chúng gieo tan tóc chết chóc cho con người, hết triệu năm nầy sang triệu năm khác. Tội ác của chúng không thể nào kể xiết. Nhưng không ai diệt nổi chúng, vì chúng đã đạt đến cảnh giới pháp thuật Thần Thông ghê gớm. Mưu mô Quỉ quyệt vô cùng, biến giã thành chân che mắt cả Thần Thánh. Huống chi chỉ là người thường tục, thời chúng lừa gạt còn dễ hơn nữa. Ba Con Chúa Quỷ pháp thuật Thần Thông ghê gớm ấy. Chúng chỉ thua gươm Thiên trí huệ Chánh Đẳng Chánh giác của Linh Hồn con người. Ánh sáng của Chánh Đẳng Chánh giác.

Một là: Pháp Tạng Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Hiến pháp, pháp Tạng vũ trụ.

Hai là: Luật Tạng vũ trụ. Nhân quyền Bình Đẳng. Những quyền Thiêng Liêng mà Cha Trời đã ấn chứng di truyền cho mỗi con người, không có quyền tước đoạt hoặc ngăn cấm những quyền thiêng liêng ấy. Bất khả xâm phạm.

Ba là: Ánh sáng Chính Nghĩa, ánh sáng Đạo Đức Chân Thiện. Phật Thánh Tiên, Thiên Tạng vũ trụ, ánh sáng Chủ Nghĩa Đại Đồng, Công Bằng xã hội.

Ba ánh sáng Chí Tôn Tam Bảo Chính là ba ánh sáng của Chánh Đẳng, Chánh Giác, ánh sang cứu thế. Ba con Chúa Quỷ chúng rất sợ ba ánh sáng Chánh Đẳng, Chánh Giác nầy. Về thời mạc pháp Tà Ma ác quỷ chúng giã tạo ra ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác che mắt Thần Thánh, lừa gạt Thiên Hạ, dẫn dắt Thiên Hạ vào con đường tội lỗi. Gươm Thiên Đại Huệ Chánh Đẳng Chánh giác xuất hiện. Khi xuất hiện liền tỏa ra ba Đạo hào quang, hiện ra vô số Mặt Trời. Mặt Trời Hiến Pháp Chính Nghĩa. Mặt Trời Luật Pháp Chính Nghĩa. Mặt Trời Đạo Đức Công Lý Chính Nghĩa. Thi nhau tỏa sáng thiêu rụi Tà Ma ác quỷ. Làm cho chúng tiêu tan sức lực. Không còn đủ sức thị hiện Thần Thông, buôn Thần bán Thánh. Làm hại Nhân Loại con người.

Tuy chúng ta đã tiêu diệt ba con Chúa Quỷ và bè đảng Yêu Tinh của chúng. Nhưng chúng ta đừng lầm tưởng yêu quái đã chết mà không làm hại con cháu chúng ta. Cái chết của chúng chỉ là thể xác. Còn Linh Hồn của chúng. Một số ẩn núp hang sâu, dưới tán cây Cổ Thụ lớn. Còn số đã bay dạt về Phương Tây. Không bao lâu chúng nó sẽ hoàn Hồn thông linh trở lại. Hồn chúng nó lưu vong qua nhiều thuộc địa. Tiếp tục kết bè kết đảng với nhiều yêu Tinh khác. Và chúng không bao giờ quên mối thù Con Cháu nhà Trời tiêu diệt chúng. Chúng sẽ đầu thai Đất Bắc tạo lập lên quyền thế, chờ cơ hội thuận lời là tiêu diệt Nước Văn Lang. Tiêu diệt con cháu chúng ta. Chúng chờ con cháu chúng ta quên đi Nguồn Cội là chúng đầu thai vào làm con cháu, Của con cháu chúng ta, gây ra cảnh nồi da nấu thịt. Đồng Bào anh em tàn sát lẩn nhau. Hồn ba con Chúa Quỷ chúng thấy Quân Dân Văn Lang. Hết lòng thờ phụng Tôn Thờ Đức Cha Trời Lạc Long Quân. Tôn thờ Địa Mẫu Âu Cơ. Ba Hồn con Quỷ đã bỏ trốn xa Nước Văn Lang. Hồn Mộc Tinh, Ngư Tinh đã trốn chạy về Phương Tây. Hồ Tinh lòng tham vọng dã tâm rất lớn, lúc nào cũng muốn chiếm đoạt Địa Long hình chữ S. Nên không chạy trốn về Phương Tây mà chỉ ẩn mình trốn ở Đất Bắc. Ba con Chúa Quỷ Hồn chúng không đầu thai trở lại Căn Cội của chúng mà chúng sẽ đầu thai làm người, ăn gan uống máu con người. Chúng hành hạ con người, chúng biến con người làm nô lệ cho chúng. Hồn Cáo Hồ Tinh Chín đuôi có cánh, luôn luôn chờ cho Dân Tộc Văn Lang. Quên đi nòi giống Tiên Rồng. Quên đi Nguồn Cội. Đánh mất truyền thống dân tộc, xu thế ngoại ban. Đây là cơ hội cho Hồ Tinh đầu thai khởi động bộ máy chiến tranh. Dẩn con Cháu Văn Lang vào cảnh nô lệ, vào cảnh nồi da nấu thịt. Văn Hóa Cội Nguồn mất. Thiên Ấn tan biến chẳng còn thời con cháu Văn Lang khốn khổ hàng năm.

Hởi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang. Dù ba con Chúa Quỷ chúng tài đến đâu. Thần Thông đến đâu. Cũng không thoát khỏi tai mắt của Trời. Vì Đức Cha Trời, Đức Địa Mẫu là hai Đấng tối cao Chúa Tể vũ trụ. Quyền năng vô hạn sự hiện thân của Đức Tổ Tiên. Nếu chúng ta không rời bỏ Cội Nguồn. Con Cháu của chúng ta không rời bỏ Cội Nguồn. Thờ phụng Tổ Tiên. Cha Trời Lạc Long Quân. Địa Mẫu Âu Cơ, theo Văn Hóa Cội Nguồn mà hành trì. Thời Tà Ma ác Quỷ cũng khó mà làm gì được.

Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang phải tuyệt đối nhớ lời ta dặn. Dù cho có xảy ra chuyện gì, cũng không được bỏ Cội bỏ Nguồn. Đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn, Nòi giống Rồng Tiên, đánh mất truyền thống dựng Non dựng Nước.Thời coi như mất tất cả. Cảnh lệ thuộc ngoại ban, cảnh nô lệ ngoại ban, cảnh nồi da nấu thịt, nội chiến triền miên không sao tránh khỏi. Đã đến giờ ta từ biệt cõi Trần, từ biệt Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang yêu mến. Quốc Tổ phất tay từ biệt. Nhị xác thần Quốc Tổ thoát ra khỏi thể xác phàm trần, hào quang rực rỡ. Nơi chốn nhân gian, Chư Thiên trỗi nhạc nghe văng vẳng. Thuyền Rồng đã đến, Quốc Tổ bay lên không trung hạ chân xuống Chân Mây vẫy tay thay cho lời vỉnh biệt Quân Dân cả Nước.
**************


CHƯƠNG 21

PHẦN CUỐI  PHẦN 1

THỊNH - SUY

Từ ngày Quốc Tổ về Trời. Thái Thượng Quốc Mẫu, còn ở lại chốn nhân gian, tiếp tục lãnh đạo Đất Nước. Khi ấy Hùng Quí Lân con cả Quốc Tổ lên ngôi vương được ba năm. Hùng Vương đời thứ 2. Trị Quốc không bao lâu, thời Đàn voi có sự đột biến. Nguyên đàn voi trăm con, có một con không nghe lịnh Hùng Vương. Có ý phản lại Bách Tộc Văn Lang. Vua Hùng Vương đời thứ hai tức giận ra lịnh đem chém trước Bách Tộc Văn Lang trị cái tội bất trung, máu loang đỏ thắm như nhắc nhở cho những kẻ ăn ở hai lòng.

Niên Đại Hùng Vương tiếp nối nhau trị vì Thiên Hạ được 41 đời. 23 đời Thượng Hùng Vương. 18 đời Hạ Hùng Vương. Kéo dài được 2.701 năm. Thời Dựng Nước 79 năm Thời Quốc Tổ. Thời Giữ Nước 2.622 năm thời con cháu.

Ở thời kỳ Thượng Hùng Vương. Đời Hùng Vương thứ 13 sang đời Hùng Vương thứ 14. Có giặc Thượng Tây Hạ. Giặc Hồ Xương kéo đến xâm lược Tây Bắc Văn Lang. Nhưng bị Quân Văn Lang Con Rồng Cháu Tiên đánh bại, vùi lấp quét sạch nơi trận địa, ngoại xâm khiếp vía kinh hồn.

Nước Văn Lang là một Đất Nước hưng thịnh, vô cùng béo bở làm cho các thế lực ngoại ban, thèm muốn không từ một thủ đoạn âm mưu nào, miển sao chiếm Đất lấn Đất nuốt lần Nước Văn Lang. Cả miền Bắc nước Văn Lang Tây Bắc và Đông Bắc, các thế lực ngoại xâm, xâm lược càng về sau càng quy mô lớn. Chúng nuôi mộng xâm lược luôn luôn chờ cơ hội. Nước Văn Lang là một Đất Nước có nhiều nền Văn Minh lớn.
1: Nền Văn Minh Hội Họa. Giao tiếp.
2: Nền Văn Minh Khai thác. Tài nguyên.
3: Nền Văn Minh Rèn đúc. Dụng cụ.
4: Nền Văn Minh Lúa Nước.
5: Nền Văn Minh Quốc Đạo Chính Nghĩa.

Với lòng tham vọng của các thế lực ngoại ban. Ngoài Non Sông Đất Đai trù phú, khí hậu ôn hòa, thiên nhiên ưu đãi, còn năm nền văn minh trên, cọng thêm nền văn minh gốm, sứ. Vì chiến tranh thường xảy ra. Các thế lực ngoại xâm, xâm lược, càng về sau càng quy mô lớn. Làm cho nền Văn Minh Văn Lang chậm Nguồn phát truyển. Nước Văn Lang càng lúc càng thu hẹp càng lúc càng lâm nguy. Khi ấy Nước Xích Quỷ đã rơi vào tay giặc phương Bắc, coi như Nước Văn Lang đã mất đi một phần ba, mà còn mất thêm nữa.

Khi ấy Tây Văn Lang. Thục phán là cháu 20 đời của Thục Lao. Bà Cố của Thục phán, là Công Chúa Hùng Vương đời thứ 15 Hùng triều vương. Cảnh Chiêu Lang. Thục Phán thấy Hùng Duệ Vương không có con trai, lại bỏ bê chính sự, nịnh Thần lộng hành, không sớm thì chầy cũng bị ngoại xâm nuốt chửng. Nghe Vua Hùng chuẩn bị nhường ngôi cho con rễ. Tức là Tản Viên Sơn Thánh (Nguyển Tuấn). Thục Phán tức giận, huy động Chín Chúa khắp Tây Văn Lang. Chín Chúa Tây Văn Lang là cháu trên 20 đời của Tây Thục Vương, huy động 30 vạn quân kéo về thành Văn Lang ép Vua Hùng nhường ngôi.

Hùng Duệ Vương có trao binh quyền cho Tản Viên Sơn Thánh chống trả lại Thục Phán. Tản Viên Sơn Thánh nghe tin Thục Phán vô tình gặp rùa Thần. Rùa Thần dẩn Thục Phán đến hang động bí mật. Nơi Quốc Tổ Vua Hùng luyện Bảo Kiếm. May thay nơi đây còn sót lại bí quyết luyện thép của Quốc Tổ Vua Hùng và Thục Phán đã luyện được thép thành công. Thục Phán cho người rèn đúc ra kiếm, ra tên vô cùng lợi hại. Tản Viên Sơn Thánh, NguyễnTuấn biết chống trả cũng không lại, lại gây ra cảnh tương tàn nồi da nấu thịt, sò hến đánh nhau ngư ông đắc lợi. Ngoại xâm chính là ngư ông. Chờ thời cơ là hốt sạch, xóa sổ nước Văn Lang, Nguyển Tuấn thấy rõ nguy cơ mất nước xảy ra. Khi anh em tương tàn nồi da nấu thịt. Chi bằng khuyên Vua Hùng nhường ngôi Quốc Vương cho Thục Phán.
**************


CHƯƠNG 21

PHẦN CUỐI  PHẦN 2

THỜI MẠT PHÁP - MẠT VẬN

Thục Phán lên ngôi Quốc Vương. Niên Đại Hùng Vương kết thúc. Chuyển sang niên hiệu An Dương Vương. Thời Đại Văn Lang kết thúc. Chuyển sang thời đại Âu Lạc. Cũng chính là lúc con cháu Tiên Rồng rơi vào thời mạt pháp mạt vận. Mặt Trời Chính Nghĩa không còn, màn đêm bao phủ Con Cháu Tiên Rồng.

AN DƯƠNG VƯƠNG trị vì Thiên Hạ 79 năm. Thời bị TRIỆU ĐÀ từ lâu chiếm lĩnh Địa phận Nước Xích Quỷ. Tiến quân tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG. Thành Cổ Loa rơi vào tay giặc.

Khi Thục Phán lên ngôi Quốc Vương, lúc ấy Bắc Văn Lang Nước Xích Quỷ đã rơi vào tay giặc từ lâu. Trở thành mảnh đất chiến tranh, tranh giành của nhiều thế lực. Như Thục - Tần - Ngô - Sở - Triệu - Hán - Ngụy - Tấn. Đất Bắc nhà Chu đi vào giai đoạn kết thúc. Chiến tranh, tranh giành thuộc địa càng lúc càng dữ dội.

Khi Thục Phán lên ngôi Quốc Vương lập nước ÂU LẠC. Bắc Văn Lang, Nước Xích Quỷ đã rơi vào tay quân giặc Tấn. Quân giặc Sở cắt đôi Giao Chỉ thành thế Đông Tây, Cữu Chân, Nam Hải, Đông Hải, Hợp phố. Cọng thêm nữa phần đất Giao Chỉ phía Đông, do quân giặc Sở đô hộ chiếm đóng. Uất Lâm - Thương Ngô - Nhật Tây - Nhật Nam. Cọng thêm nữa phần đất Giao Chỉ phía Tây. Do quân giặc Tấn đô hộ chiếm giữ. Dưới ách thống trị của giặc ngoại xâm. Bách Tộc Văn Lang Âu Việt - Lạc Việt - Mân Việt - Dương Việt -  Điền Việt - Hải Việt - Sơn Việt - Trung Việt - Hoa Việt - Đông Việt - Tây Việt v.v… gọi chung là Bách Việt Văn Lang, ở vào giai đoạn Hạ Hùng Vương từ đời Hùng Vương thứ 11 đến thứ 18.

Dưới ách thống trị Quân Tấn. Quân Sở, Bách Việt Văn Lang vô cùng khốn khổ. Chúng ra sức vơ vét của cải phục vụ cho chiến tranh. Đất nước Xích Quỷ Bắc phần Văn Lang, vô cùng trù phú là miếng mồi béo bở tranh giành của nhiều thế lực. Vì thế giặc Tấn, bị quân Triệu, quân Hán, quân Ngụy, kéo đến tấn công. Quân Tấn bị tiêu diệt. Giặc Hán, giặc Triệu, giặc Ngụy chia nhau chiếm giữ. Bách Việt Văn Lang lại rơi vào cảnh khốn khổ khác. Hổ chết thời sói vào Ma tiêu thời Quỉ đến. Chúng không những vơ vét về của cải vật chất mà còn vơ vét con người phục vụ cho chiến tranh, còn nổi khổ nào hơn nữa.

Tần Thủy Hoàng gồm thâu Thiên Hạ giành lấy giang sang của kẻ khác. Nhất là miếng mồi béo bở như nước Xích Quỷ, liền đem quân tấn công, Quân Ngụy, Quân Triệu, Quân Hán.

Đất Bắc Nhà Chu đi vào giai đoạn kết thúc. Nhà Tần lên thay thế 257 trước công nguyên. Nhà Tần gồm thâu Thiên Hạ, tranh giành đất đai. Quân Hán - Quân Ngụy đầu hàng. Quân Triệu vì ỷ có 40 vạn quân nên không chịu đầu hàng. Thế là cuộc chiến xảy ra trên đất Tây Giao Chỉ vô cùng khốc liệt. Gia Triệu tử nạn 20 vạn quân chôn vùi tại trận. Con của Gia Triệu là Gia Lại. Dẩn 20 vạn quân còn lại, chạy trốn sâu vào Đất Văn Lang, xưng là Đại Vương. Quân Tần tiếp tục truy sát. Gia Lại Đại Vương dẩn 20 vạn quân vượt qua sông Tây Giang. Quân Tần không truy đuổi nữa về sau Gia Lại xưng hiệu là Triệu Việt Vương.

Quân Triệu giặc Triệu vượt qua sông Tây giang chiếm lĩnh nhiều Châu nhiều Quận nhiều Huyện của trung phần đất Văn Lang như: Hồng Châu, Hồng Thượng Châu, Đông Châu, Thái Châu, Bộc Châu, Cưu Châu, Tiên Châu, Lô Châu, Du Châu, Thạch Châu, Môn Châu, Điền Châu. Tình hình Bách Việt Văn Lang lúc bây giờ rối loạn, rối ren liên tiếp xảy ra sự lộn rộn, không có trật tự nào cả. Bắc Văn Lang thời đã rơi vào tay giặc. Còn Trung Văn Lang tình hình như đã nói trên trộm cướp khắp nơi. Tình hình vô cùng thuận lợi cho giặc Triệu chiếm lĩnh đất đai hàng phục dân chúng một cách dễ dàng. Không bao lâu thế lực của giặc Triệu lên tới 40 vạn. Tiếp tục chiếm lĩnh các Châu, Quận, Huyện về hướng đông trung Văn Lang như: Lũng Trung Châu, Diên Giao Châu, Hồng Định Châu, Hà Hạ Châu, Thượng Lô Châu, Lô Lô Châu.

Tần Thủy Hoàng gồm thâu Thiên Hạ chia Thiên Hạ ra làm 36 Quận. Quận lớn hơn Huyện. Quận ở Tần bằng Châu Văn Lang. Đời Tần thịnh về thuyết Ngũ Hành. Nên chia Thiên Hạ cũng theo năm phương vị Ngũ Hành. Đại Nam - Đại Bắc - Đại Đông - Đại Tây. Nhưng chỉ có Đại Nam là quan trọng hơn cả. Chiếm được Đại Nam là coi như chiếm được Thiên Hạ. Nên Tần Thủy Hoàng quét sạch Quân Hán - Quân Triệu - Quân Ngụy - Quân Sở. Chiếm lĩnh Đại Nam trước, Đại Nam chính là Nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang.Trước sự cai trị độc ác hà khắc ác nghiệt của Chế Độ Chính sách nhà Tần. Dân chúng Bách Việt Văn Lang Xích Quỷ, bỏ trốn di cư vào Nam, vượt qua sông Tây Giang, làm cho thế lực Triệu Đại Vương càng ngày càng mạnh.

Lúc nầy nền Quốc Đạo truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn, phai mờ từ lâu. Bách Việt rơi vào cảnh tối tăm. Đất Bắc sáng sủa hơn vì có thuyết Lão giáo. Khổng giáo. Ngoại xâm, xâm lược Nước Văn Lang không những chỉ có Quân Sự, Chính trị mà còn có cả Văn Hóa. Xâm lược Văn Hóa còn độc hại hơn xâm lược Quân Sự, Chính trị. Bách Việt Trung phần, Bắc phần Văn Lang đã bị Văn Hóa ngoại xâm thống trị ngự trị ăn sâu vào tâm hồn. Đồng hóa Dân Tộc Văn Lang thành Dân Tộc Đất Bắc.

Cho đến 184 trước công nguyên. Triệu Đại Vương đem quân đánh An Dương Vương. Nhưng đánh không lại tiêu 20 vạn quân và mấy lần liên tiếp thất bại. Triệu Đại Vương tức là Triệu Đà khiếp vía. Biết không thể nào thắng nổi An Dương Vương. Triệu Đà bằng nghỉ ra một kế sách âm mưu lớn. Đà quỉ quyệt xin giảng hòa với An Dương Vương. Rồi sai con trai là Trọng Thủy vờ sang cầu hôn với Nàng Mỵ Châu. Chủ ý là dò xét cách dàn quân bày trận. Liên hoàn cung và vũ khí luyện thép bí mật của ÂU LẠC. Mũi tên thép, bắn thủng áo giáp, độ trúng chính xác rất cao, làm khiếp sợ quân xâm lược. Với mưu chước quỉ quyệt cầu hôn giảng hòa giã tạo nầy. Triệu Đà đã đạt được mục đích. Trọng Thủy học được bí quyết luyện thép. Nhờ sự giúp đở của Mỵ Châu. Triệu Đà liền chế tạo ra tên thép. Kiếm thép. Áo giáp thép, liền tiến quân đánh thành Cổ Loa. AN DƯƠNG VƯƠNG ỷ y bất ngờ bị Triệu Đà tiêu diệt.

Thế là Nước Âu Lạc không còn vào năm 179 trước công nguyên. Tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG xong Triệu Đại Vương, xưng là Triệu Việt Vương. Con Cháu Tiên Rồng rơi vào cảnh Đô hộ ngoại ban. Dưới sự cai trị của Quân Triệu Con Cháu Tiên Rồng không tùng phục. Mà còn nổi lên chống trả khắp nơi. Triệu Việt Vương tên xâm lược, ra sức dẹp loạn. Nhưng dẹp chổ nầy là chổ khác lại mọc lên. Y lấy làm lạ đâu cũng là Nước Văn Lang. Nhưng Dân Nam Văn Lang vô cùng khác lạ. Không giống Trung Văn Lang và Bắc Văn Lang, y ra sức dụ dỗ cách nào Dân cũng không nghe, y thuyết giảng Khổng, Lão. Dân cũng không màng và y đã nghi ngờ Đất Đai Nam Văn Lang có vấn đề.

Nói về Triệu Đại Vương. Triệu Đà có đủ sức mạnh đánh chiếm Nước Âu Lạc. Có bốn nguyên do thuận lợi tạo lên thắng lợi đó.
1: Là do sự cai trị Độc ác của chế độ nhà Tần. Dân chúng Bách Việt Văn Lang Nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang. Bỏ trốn di cư vào Nam, vượt qua sông Tây Giang làm cho thế lực Triệu Đại Vương càng ngày càng thêm Mạnh. Nhờ vào chính sách, lừa bịp giỏi.
2: Là 209 trước công nguyên. Công Tử Hồ Hợi. Lên kế vị Tần Thủy Hoàng. Nhị thế Hoàng Đế. Thời Triệu Cao lên chức như dều gặp gió. Từ lang trung lệnh không bao lâu lên nắm quyền Thừa Tướng. Quyền lực thế lực rất mạnh, khôi phục lại thế lực Nước Triệu ở bên kia Hoàng Hà. Thế là Triệu Đại Vương Triệu Đà. Thoát khỏi áp lực truy sát Quân Tần. Lại được Nước Triệu, bên kia sông Hoàng Hà hậu thuẩn ủng hộ giúp sức. Triệu Đại Vương trên đà hùng mạnh, tiến quân đánh An Dương Vương nhưng Triệu Đà vẩn đánh không lại, vì AN DƯƠNG VƯƠNG có liên hoàn cung. Mũi tên thép, bắn thủng áo giáp, nón mũ giáp, độ trúng chính xác rất cao. Mấy lần thất bại làm cho Triệu Đà khiếp sợ.
3: Triệu Đà lập ra một âm mưu lớn. Đà quỷ quyệt xin giảng hòa với AN DƯƠNG VƯƠNG. Rồi sai con Trai là Trọng Thủy vờ sang cầu hôn với Nàng Mỵ Châu. Chủ ý là dò xét cách dàn quân bày trận Liên Hoàn Cung và cách luyện thép bí mật. Chế tạo lên thép, Kiếm thép, Đao thép, mũi lao thép của ÂU LẠC. Với mưu chước quỉ quyệt nầy. Triệu Đà đã đạt được 2 mục đích.
- Chia rẽ nội bộ làm cho mâu thuẩn với nhau, mất đoàn kết, mất sức mạnh thống nhất.
- Khám phá ra bí mật cách dàn quân bày trận Liên Hoàn Cung, cách luyện thép, cách chế tạo ra tên thép, Kiếm thép, Đao thép, Lao thép, chúng còn chế tạo ra cả áo giáp thép.
4: Chúng thấy thời cơ đã chín mùi, liền tiến quân đánh chiếm thành Cổ Loa, tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG 179 trước công nguyên.

Diệt xong An Dương Vương, y tưởng rằng hàng phục Dân Âu Lạc một cách dễ dàng, nào hay đâu y không hàng phục được. Mà Dân Âu Lạc càng ngày càng nổi lên chống trả y càng dữ dội, y liền cho người về Nước Triệu, thỉnh cầu cao kiến. Lúc ấy Nước Triệu Trương Nhĩ đã lên làm thừa tướng. Trương Nhĩ có quen với một người Nước Tần là Tấn Hầu Gia chán ngán cuộc thế ở ẩn. Rất giỏi về Thiên Văn Địa Lý, dịch số, toán số. Nhưng vì nể Trương Nhĩ là bật Nhân hiền. Nên vào Nam giúp cho Triệu Việt Vương tức là Triệu Đà, xem qua địa cuộc Nam Văn lang.

Tấn Hầu Gia vừa đến đất ÂU LẠC Nam Văn Lang, thời cảm thấy bất an ớn lạnh, Triệu Việt Vương dẩn Tấn Công Hầu xem qua địa cuộc Nam Văn Lang, Công Hầu thấy Đất Đai Núi sông kỳ bí khí thiên sông núi tỏa lên kỳ lạ. Địa cuộc Hổ phục, Rồng Chầu, Hổ ngồi Rồng ẩn thời thốt lên quả là Địa Linh Đất Thánh. Không phải Dân Nam thời xưng vương ở đất nầy nhất định sanh đại họa. Công Hầu nói Đất Nam kỳ bí nầy chỉ có người Nam cai trị người Nam. Việt Vương không nên đóng đô ở đây. Đóng đô trên đất Giao Chỉ để xưng Vương. Còn nơi đây đặc sứ tài giỏi để cai trị, bóc lột vơ vét không cho dân chúng có đủ sức lực để chống trả. Triệu Việt Vương làm theo, phong cho Triệu Lữ Gia làm thừa tướng. Biến Nước ÂU LẠC thành Nam Quận. Triệu Lữ Gia là con cáo già thâm độc. Dùng kế sách Người Nam Việt cai trị Người Nam Việt. Làm cho cảnh nồi da nấu thịt vô cùng thê thảm.

Cho đến 111 trước công nguyên. Nhà Hán tiêu diệt Nhà Triệu. Cướp Nước Nam Việt lần nữa. Thừa Tướng Triệu Lữ gia bỏ Âu Lạc chạy sang phiên Ngung cấu kết với các Bộ Tộc thổ hào Văn Lang chống lại nhà Hán và cuộc giao tranh giữa nhà Hán với Thổ Hào Văn Lang tại Long động Hùng Sơn. Triệu Lữ Gia tử nạn. ÂU LẠC Nam Văn Lang lại rơi vào tình cảnh bi đát hết sức đau khổ. Con Cháu Tiên Rồng thật đáng thương. Nhìn cảnh vơ vét bọc lột dã man của Quân Hán. Nhìn cảnh Trâu cày Ngựa cỡi tù đày tra tấn, đói rét, bệnh tật, sống chết nằm trong tay giặc. Thi sách nhìn quân thù hai con mắt đổ lửa.
Từ thuở dựng Non thuở Ông Cha
Văn Lang rực rỡ, cảnh Sơn Hà
Con Cháu Tiên Rồng uy linh khắp
Ngoại xâm khiếp vía chẳng dám qua.

Nhìn cảnh Con Cháu Tiên Rồng bị quân Hán cai trị vô cùng tàn bạo. Nhìn Con Cháu Tiên Rồng thân Trâu cày Ngựa cỡi. Thi Sách xót lòng xót dạ.
Nhìn cảnh kéo cày rơi nước mắt
Đòn roi vun vút tét thịt da
Tô Định hỡi thằng hung bạo ác
Sách đây sùng sục máu Ông Cha.

Thi Sách là Cháu Quan hầu tướng về quê ở ẩn. Không theo phò An Dương Vương. Sách nhìn cảnh tàn ác của quân xâm lược nung nấu ý chí. Ngày đêm gốp nhặc viết sử Ông Cha, kêu gọi Con Cháu Tiên Rồng khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược.
Nước Non, Non Nước cảnh đông về
Bão giặc lan tràng khắp xốm quê
Gái trai già trẻ đời nô lệ
Giặc vơ giặc vét thảm nảo nề.

Giặc Hán không những vơ vét sức người của cải, tài nguyên đất nước mà còn ra sức ếm yểm hầu tiêu diệt Linh Địa khắp nơi.
Gươm của chúng đã đâm vào huyệt mẹ
Thời còn chi người Mẹ Nước Nước Non
Hỡi Dân Nam, người Dân Đại Việt
Hãy vùng lên quét sạch ngoại ban.

Thi Sách ngày đêm gốp nhặc những gì còn sót lại. Truyền thống quí báu của Ông Cha. Để cho Con Cháu Tiên Rồng có hướng đi theo bước Cha Ông. Tô Định được mật báo liền bày kế giết chết Thi Sách. Đốt sạch những gì Thi Sách để lại.

Mùa xuân năm 40 sau công nguyên. Chị em Trưng Trắc - Trưng Nhị dựng cờ khởi nghĩa, trả thù chồng, thù Nước. Thái Thú Tô Định bị hai bà Trưng đánh tơi bời.
Nghe tiếng sấm đất Trời rung chuyển
Tiếng Voi rền dậy núi dậy non
Tô Định hoảng vía hồn kinh
Trống - Chiêng Đao Kiếm rung rinh Đất Trời
Nhìn quân Hán ngã nhào tan xác
Tiếng hò reo cùng khắp bao vây
Tô Định cạo tóc cạo râu
Tìm đường chốn chạy xiết bao hãi hùng
Cờ Đại Nghĩa phực phừng phất phới
Giống Rồng Tiên cỡi gió tung bay
Tô Định rời rã chân tay
Kể gì vinh nhục miển sao thoát cùng
Đất Trời Nam bừng bừng tỏa sáng
Phá xích xiền đời sống tự do
Con đường no ấm, ấm no
Chủ Quyền Độc Lập giữ cho vững bền
Gương bà Trưng anh hùng liệt Nữ
Trang sử vàng, sáng mãi muôn năm
Hỡi muôn Dân hỡi Cháu Con
Chủ Quyền Độc Lập vàng son nước nhà.
**************


CHƯƠNG 21

PHẦN CUỐI PHẦN 3

NIÊN ĐẠI HÙNG VƯƠNG

THỜI THƯỢNG HÙNG VƯƠNG:

1. ĐỜI THỨ NHẤT. HÙNG VƯƠNG QUỐC TỔ.
Sinh ngày 20 tháng 02 năm giáp Thìn. Về Trời ngày 10 tháng 03 năm Ất Mùi.
16 tuổi đi tu tìm chân lý.
22 tuổi chuyển Pháp Luân, khai hội Long Vân.
25 tuổi dẩn quân Âu Lạc tiến về Đất Lĩnh Nam, khai dựng Nước Văn Lang.
30 tuổi lên ngôi Quốc Vương. Hùng Vương đời thứ nhất.
41 tuổi sanh Hùng Quí Lân. 109 tuổi Quốc Tổ truyền ngôi cho con cả là Hùng Quí Lân. 2880 trước công nguyên 79 năm ở ngôi Dựng Nước.
3 Năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng giáo Tổ Quốc Đạo.
112 tuổi Quốc Tổ về Trời. Quốc Tổ lên ngôi Quốc Vương
Ngày 2 tháng 9 năm Quí Dậu. 
2959 trước công nguyên. Nhà Nước Văn Lang chính thức ra đời.

2. ĐỜI THỨ NHÌ. LÂN LANG.
HÙNG QUÍ LÂN: Lên ngôi Quốc Vương trị vì Thiên Hạ, thay Cha là. Hùng Lang Quốc Tổ đời thứ 2.
2.880 đến 2.796 trước công nguyên.
68 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
84 năm ở ngôi Quốc Vương. Thọ 162 tuổi.
10 năm ở ngôi Thái Thượng Quốc Đạo. 152 tuổi nhường ngôi lập cháu có Đức có Tài lên thay thế đời thứ 3.



3. ĐỜI THỨ BA. THÁI LANG.
HÙNG THÁI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội là Hùng Quí Lân. HÙNG VƯƠNG đời thứ 3.
2796 đến 2726 trước công nguyên.
63 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
20 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 153 tuổi.

4. ĐỜI THỨ TƯ. THUẬN LANG.
HÙNG THUẬN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông nội, Hùng Thái Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 4.
2.726 đến 2.644.
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
82 năm ở ngôi Quốc Vương.
12 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 154 tuổi.

5. ĐỜI THỨ NĂM. MẬT LANG.
HÙNG MẬT LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội Hùng Thuận Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 5.
2644 đến 2572 trước công nguyên.
62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
72 năm ở ngôi Quốc Vương.
12 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 146 tuổi.

6. ĐỜI THỨ SÁU. CAO LANG.
HÙNG CAO LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Mật Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 6.
2572 đến 2498 trước công nguyên.
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
74 năm ở ngôi Quốc Vương.
10 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 144 tuổi.

7. ĐỜI THỨ BẢY. QUYỀN LANG.
HÙNG QUYỀN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Cao Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 7.
2498 đến 2417 trước công nguyên.
61 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
81 năm ở ngôi Quốc Vương.
9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 151 tuổi.

8. ĐỜI THỨ TÁM. LỘC LANG.
HÙNG LỘC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quyền Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 8.
2417 đến 2339 trước công nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
78 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 143 tuổi.

9. ĐỜI THỨ CHÍN. THỊNH LANG.
HÙNG THỊNH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Lộc Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 9.
2339 đến 2265 trước công nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
74 năm ở ngôi Quốc Vương.
9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo.Thọ 141 tuổi.

10. ĐỜI THỨ MƯỜI. THANH LANG.
HÙNG THANH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thịnh Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 10.
2265 đến 2188 trước công nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
77 năm ở ngôi Quốc Vương.
9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 144 tuổi.

11. ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT. TÂM LANG.
HÙNG TÂM LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thanh Lang.
2188 đến 2113 trước công nguyên.
63 tuổi ở ngôi Quốc Vương.
75 tuổi ở ngôi Quốc Vương.
7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 145 tuổi.

12. ĐỜI THỨ MƯỜI HAI. QUẾ LANG.
HÙNG QUẾ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Tâm Lang.
2113 đến 2043 trước công nguyên.
61 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 137 tuổi.

13. ĐỜI THỨ MƯỜI BA. ÁC LANG.
HÙNG ÁC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quế Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 13.
2043 đến 2001 trước công nguyên.
62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
42 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 106 tuổi.

14. ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN. LINH LANG.(Con út).
HÙNG LINH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay Cha là Hùng Ác Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 14.
2001 đến 1927 trước công nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
74 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 138 tuổi.

15. ĐỜI THỨ MƯỜI LĂM. CHÂU LANG.
HÙNG CHÂU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Linh Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 15.
1927 đến 1857 trước công nguyên.
63 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 140 tuổi.

16. ĐỜI THỨ MƯỜI SÁU. XÍCH LANG.
HÙNG XÍCH LANG: lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Châu Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 16.
1857 đến 1778 trước công nguyên.
56 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
79 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 141 tuổi.

17. ĐỜI THỨ MƯỜI BẢY. QUÂN LANG.
HÙNG QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Xích Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 17.
1778 đến 1705 trước công nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
73 năm ở ngôi Quốc Vương.
8 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 140 tuổi.

18. ĐỜI THỨ MƯỜI TÁM. THỤC LANG.
HÙNG THỤC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quân Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 18.
1705 đến 1634 trước công nguyên.
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
71 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 136 tuổi.

19. ĐỜI THỨ MƯỜI CHÍN. YÊN LANG.
HÙNG YÊN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thục Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 19.
1634 đến 1562 trước công nguyên. 
55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
72 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.

20. ĐỜI THỨ HAI MƯƠI. VĨ LANG.
HÙNG VĨ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Yên Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 20.
1562 đến 1486 trước công nguyên.
52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
76 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.

21. ĐỜI THỨ HAI MỐT. TÂN LANG.
HÙNG TÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Vĩ Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 21.
1486 dến 1417 trước công nguyên.
29 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
69 năm ở ngôi Quốc Vương.
8 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 136 tuổi.

22. ĐỜI THỨ HAI HAI. CHIẾN LANG.
HÙNG CHIẾN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Tân Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 22.
1417 đến 1342 trước công nguyên.
52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
75 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.

23. ĐỜI THỨ HAI BA. DỊCH LANG.
HÙNG DỊCH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Chiến Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 23.
1342 đến 1276 trước công nguyên. 
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
66 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 128 tuổi. 

Niên Đại Thượng Hùng Vương đến đây là kết thúc. Chuyển sang Niên Đại Hạ Hùng Vương. Hùng Dịch Lang không có con trai, nên không có cháu trai. Để lập Quốc Vương kế vị. Hùng Cừ Lang là em của Hùng Dịch Lang. Cháu thứ 3 của Hùng Cừ là Vân Lang. Cha của Vân Lang là Chấp Lang. Hùng Dịch Lang, Hùng Vương đời thứ 23 lập Vân Lang. Cháu của em mình là Hùng Cừ lên kế vị ngôi Quốc Vương. Đời thứ 24, cũng là đời thứ nhất Hạ Hùng Vương.

THỜI HẠ HÙNG VƯƠNG:

1. ĐỜI THỨ NHẤT. VÂN LANG.
HÙNG VÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Bác Nội. Hùng Dịch Lang. HÙNG QUỐC VƯƠNG thứ 1.
1276 đến 1211 trước công nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
65 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 126 tuổi.

2. ĐỜI THỨ HAI. HUÂN LANG.
HUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Vân Lang, pháp hiệu HÙNG YÊN VƯƠNG đời thứ 2.
1211 đến 1141 trước công nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.

3. ĐỜI THỨ BA. ĐIỂN LANG.
ĐIỂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Yên Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Tiên Vương. HÙNG TIÊN VƯƠNG đời thứ 3. 1141 đến 1077 trước công nguyên.
56 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
64 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 125 tuổi.

4. ĐỜI THỨ BỐN. BẢO LANG.
BẢO LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Tiên Vương. Lấy pháp hiệu HÙNG DIỆP VƯƠNG đời thứ 4.
1077 đến 1020 trước công nguyên.
62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
57 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 123 tuổi.

5. ĐỜI THỨ NĂM. VIÊN LANG.
VIÊN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Diệp Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Hy Vương. HÙNG HY VƯƠNG đời thứ 5. 1020 đến 961 trước công nguyên.
54 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
59 năm ở ngôi Quốc Vương.
7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 120 tuổi.

6. ĐỜI THỨ SÁU. PHÁP HẢI LANG.
PHÁP HẢI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Hy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Huy Vương. HÙNG HUY VƯƠNG đời thứ 6. 961 đến 893 trước công nguyên.
50 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
68 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 123 tuổi.

7. ĐỜI THỨ BẢY. LANG LIÊU LANG.
LANG LIÊU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Huy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Chiêu Vương. HÙNG CHIÊU VƯƠNG đời thứ 7.
893 đến 832 trước công nguyên.
48 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
61 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 114 tuổi.

8. ĐỜI THỨ TÁM. THỪA VÂN LANG.
THỪA VÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là, Hùng Chiêu Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Vi Vương. HÙNG VI VƯƠNG đời thứ 8.
832 đến 771 trước công nguyên.
51 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
61 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 116 tuổi.

9. ĐỜI THỨ CHÍN. QUÂN LANG.
QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Vi Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Đinh Vương. HÙNG ĐINH VƯƠNG đời thứ 9.
771 đến 726 trước công nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
45 năm ở ngôi Quốc Vương.
1 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 105 tuổi.

Nền Quốc Đạo duy trì đến đây là chấm dứt. Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại chút ít cũng biến mất từ đây. Đời sống xã hội Văn Lang từ đây chạy theo trào lưu, phong kiến Chủ Nghĩa Độc Quyền. Không khác gì Triều Đại Đất Bắc. Kéo dài 425 năm từ đời Hùng Vương 11 đến đời Hùng Vương 18.

10. ĐỜI THỨ MƯỜI. HÙNG HẢI LANG.
HÙNG HẢI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Định Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Úy Vương. HÙNG ÚY VƯƠNG đời thứ 10. 
726 đến 683 trước công nguyên.
67 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
43 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 113 tuổi.

11. ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT. HƯNG ĐỨC LANG.
HƯNG ĐỨC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Úy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Chinh Vương. HÙNG CHINH VƯƠNG đời thứ 11.
683 đến 641 trước công nguyên.
65 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
42 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 109 tuổi.

12. ĐỜI THỨ MƯỜI HAI. ĐỨC HIỀN LANG.
ĐỨC HIỀN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Chinh Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Vũ Vương. HÙNG VŨ VƯƠNG đời thứ  12. 
641 đến 569 trước công nguyên.
45 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
72 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 119 tuổi.

13. ĐỜI THỨ MƯỜI BA. TUÂN LANG.
TUÂN LANG: Là con thứ 7 lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Vũ Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Việt Vương. HÙNG VIỆT VƯƠNG đời thứ 13. 
569 đến 506 trước công nguyên.
50 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
63 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 118 tuổi.

14. ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN. CHÂN NHÂN LANG.
CHÂN NHÂN LANG: Là con thứ 6 lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Việt Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Ánh Vương. HÙNG ÁNH VƯƠNG đời thứ 14.
506 đến 456 trước công nguyên.
55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
50 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 109 tuổi.

15. ĐỜI THỨ MƯỜI LĂM. CẢNH CHIÊU LANG.
CẢNH CHIÊU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Ánh Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Triều Vương. HÙNG TRIỀU VƯƠNG đời thứ 15.  456 đến 396 trước công nguyên.
52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
60 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 115 tuổi.

16. ĐỜI THỨ MƯỜI SÁU. ĐỨC QUÂN LANG.
ĐỨC QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Triều Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Tạo Vương. HÙNG TẠO VƯƠNG đời thứ 16. 
396 đến 351 trước công nguyên. 
57 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
45 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 104 tuổi.

17. ĐỜI THỨ MƯỜI BẢY. BẢO QUANG LANG.
BẢO QUANG LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Tạo Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Nghị Vương. HÙNG NGHỊ VƯƠNG đời thứ 17. 
351 đến 306 trước công nguyên.
55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
45 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 102 tuổi.

18. ĐỜI THỨ MƯỜI TÁM. HUỆ LANG.
HUỆ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Nghị Vương. Lấy pháp hiệu là Hùng Duệ Vương. HÙNG DUỆ VƯƠNG đời thứ 18.
306 đến 258 trước công nguyên.
54 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
48 năm ở ngôi Quốc Vương. Thọ 102 tuổi.

Sau cơn hỏa hoạn lớn thiêu rụi thành Văn Lang. Thiêu rụi những gì còn sót lại kể cả gia phả Hùng Vương. Ý Trời. Các Vương Quan, tướng lĩnh đời cuối Niên Đại Hùng Vương, đau xót cho Niên Đại Hùng Vương, kéo dài hàng nghìn năm ai được nghe kể gì thời thờ nấy. Nên hết sức lộn xộn. Thôi thà thờ lộn xộn, câu chuyện lịch sử lộn xộn, còn hơn là đánh mất hẳn truyền thống dựng nước, giữ nước của Ông Cha.

KINH LONG HOA MẬT TẠNG ĐẾN ĐÂY LÀ HẾT.

Nguyện đem Công Đức nầy hồi hướng về cho tất cả pháp giới Rồng Tiên, thoát khỏi Đao binh, đói nghèo, lạc hậu. Sớm lên bờ giãi thoát. Chánh Đẳng, Chánh Giác. Hòa nhập vào cảnh giới Đại Đồng vũ trụ. AN LẠC YÊN VUI.

Hỏi: Muốn xây dựng một đất nước Việt Nam. Đoàn kết, Dân giàu nước mạnh, Dân chủ công bằng văn minh thời làm thế nào?

Đáp: Còn làm thế nào nữa. Tất cả con cháu Việt Nam. Dù ở bất cứ nơi đâu, trong nước ngoài nước, phải trở về với Cội với Nguồn. Tôn Thờ Cội Nguồn, gìn giữ Cội Nguồn, ca ngợi Cội Nguồn, phát huy truyền thống, dựng Nước, giữ Nước của Cha Ông.
Cây còn gốc nở cành xanh ngọn
Người có nguồn người rạng danh thơm
Giữ gìn truyền thống Cha ông
Xuân non, xuân nước, xuân bông, xuân hòa
Cây mất gốc lụn tàn héo úa
Người bỏ Nguồn lạc lối bơ vơ
Rơi vào khốn khổ lệ nô
Ngoại xâm cướp Nước vét vơ đói nghèo.

Hỏi: Bước đầu xây dựng Đất Nước thời ta phải làm sao?

Đáp: Còn làm sao nữa. Xây dựng Đất Nước, công bằng, văn minh giàu mạnh, đoàn kết, không chiến tranh, Độc Lập lâu dài. Cũng không khác gì khởi sự xây dựng tòa lâu đài nguy nga, đồ sộ lộng lẫy. Bước đầu tiên là:
1 – Là: Chọn mặt bằng.
2 – Là: san bằng mặt bằng.
3 – Là: Xây dựng nền móng kiên cố.
4 – Là: Chất liệu vật liệu xây dựng.
5 – Là: Cấu trúc cấu kết nền móng.

Đó là phần cơ bản bước đầu, sau đó mơi xây phần kế tiếp. Trụ Cột tòa lâu đài, rồi xây lên thượng tần Kiến Trúc. Chúng ta là thế hệ giữ Nước.
1. Mặt bằng có sẳn. Chính là Nước Việt Nam. Nếu nói mặt bằng rộng hơn là Nước Văn Lang.
2. Vũ khí mà Ông Cha ta sang bằng giai cấp. Chính là Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Đức, Công Lý bình đẳng, công bằng Văn Lang.
3. Nền móng Kiên cố, Dân Tộc. Chính là truyền thống dựng Nước, giữ Nước, truyền thống Chính nghĩa, truyền thống bảo vệ chủ quyền Độc Lập.
4. Chính là Văn Hóa Cội Nguồn, văn học tối cao, Đạo pháp tối cao, chất Vàng chất Ngọc khai sáng trí tuệ. Cấu trúc ung đúc tinh thần vĩ Đại. Kết dính các Dân Tộc lại với nhau.
5. Phát huy sức mạnh toàn Dân Tộc. Một sức mạnh Thần Thánh. Chính là Nền Quốc Đạo. Một sức mạnh cả tinh thần lẩn vật chất, sức mạnh của Bách chiến, Bách thắng.

Năm phần xây dựng nền móng, Dân giàu, Nước mạnh, Dân Chủ, Đoàn Kết, Công Bằng văn minh. Ông Cha ta đã xây dựng hàng nghìn nghìn năm rồi. Chúng ta là thế hệ Con Cháu gìn giữ tu tạo phát huy mà thôi. Điều quan trọng là chúng ta toàn Dân Tộc lựa chọn ra người có Tài có Đức. Những trụ Cột của tòa lâu Đài xã hội, tòa lâu Đài Đất Nước. Những trụ Cột đó phải là những hạt giống tốt, vì Dân, vì Nước, vì Cội Nguồn. Và thời cơ thuận lợi. Để cho Con Cháu Tiên Rồng làm lên tòa lâu Đài xã hội. Nhà Nước Việt Nam hào hùng nguy nga tráng lệ.
Gươm Thiên trấn Quốc đã trao tay
Vận mệnh Nước Non đã an bày
Mật Đạo hào quang Nền truyền thống
Việt Nam con cháu Phụng Rồng bay
Văn Hóa Cội Nguồn Nền Văn Hiến
Vàng son thống nhất rực trời Mây
Dân giàu Nước mạnh đời hạnh phúc
Đói tan nghèo biến, giặc tiêu bay.

Hỏi: Làm thế nào chống lại mọi âm mưu của các thế lực thù địch, ngấm ngầm chống đối, phản động, phá hoại truyền thống Dân Tộc ta. Nhất là các thế lực ngoại xâm?

Đáp: Hãy thắp sáng. Ngọn lửa Thiên yêu Nước. Ngọn lửa Văn Hóa Cội Nguồn. Ngọn lửa Chính Nghĩa. Ngọn lửa truyền thống chống ngoại xâm. Ngọn lửa hào hùng Dân Tộc. Mỗi Dân Tộc Việt Nam, mỗi Con Cháu Tiên Rồng, hảy tự mình thắp sáng ngọn Đèn trí huệ giác ngộ, hảy nhốm lên ngọn lửa yêu Nước trong lòng mình. Khi chúng ta Con Cháu Tiên Rồng đả thắp sáng lên ngọn lửa Thiên. Ngọn lửa yêu Nước, yêu Văn Hóa Cội Nguồn, yêu truyền thống Ông Cha. Thời Hồn Thiên Dân Tộc ủng hộ theo phò. Hồn Thiên Cha Ông theo giúp sức. Phật, Thánh, Tiên che chở. Đức Cha Trời, Đức Mẹ Trời dìu dắc phù hộ, tiêu diệt kẻ chống phá Cội Nguồn.
Đã có Cha Ông giúp ngại gì
Hồn Thiên Dân Tộc giúp lo chi
Cha Trời phù hộ huyền cơ chuyển
Chúng Dân trung hiếu, dậy hùng uy
Trời Nam rung chuyển rền sấm bão
Nước dân cuồn cuộn giặc tan thây
Chính Nghĩa bừng lên đời sáng tỏ
Rồng Tiên quật khởi ác tiêu bay.

Hỏi: Làm thế nào dẫn Đồng Bào Đại Việt trở về với Cội với Nguồn. Yêu truyền thống, yêu quê hương Tổ Quốc?

Đáp: Còn làm gì nữa ngoài xây dựng lại truyền thống, dựng Nước, giữ Nước của Ông Cha, phát huy ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn, ánh sáng Đại Đồng, Nhân Quyền công bằng xã hội.
Có đường là có người đi
Có sáng là có màu xanh cuộc đời
Đường truyền thống rạng ngời cùng khắp
Đường mùa xuân đầy ắp tự do
Con đường Độc Lập ấm no
Con đường hạnh phúc an vui Thái Bình.

Văn Hóa Cội Nguồn là ánh sáng tự do, ánh sáng bình đẳng, ánh sáng Nhân Quyền, ánh sáng Công Bằng xã hội, đem lại màu xanh cho cuộc sống. Văn Hóa Cội Nguồn. Truyền thống dựng Nước, giữ Nước, mở màng lịch sử Ông Cha, đã thất truyền hơn hai nghìn năm. Nay đã trở về với Dân Tộc Con Cháu Việt Nam. Gần hai nghìn năm trước cảnh đau thương, tan nhà nát cửa, chết chóc tù đày, đói nghèo lạc hậu, bởi ngoại xâm đô hộ. Bóng đêm bao phủ non sông Đại Việt. Mất đi mùa xuân màu xanh của sự sống. Đã có ánh sáng là có màu xanh tinh thần vươn lên của người Dân Đại Việt. Có đường là có người đi. Nhất là con đường Đại Lộ. Con đường truyền thống Chính Nghĩa. Tự Do, Bình Đẳng, Công Bằng Nhân Quyền, của thời dựng Nước, giữ Nước của Ông Cha ta.  
Tiếng gà vang dội khắp non sông
Bình minh ló dạng ánh rực hồng
Nước non trở lại mùa xuân mới
Đường rộng thênh thang Cội Đại Đồng
Văn Lang Quốc giáo Nền Văn Hiến
Thấm đượm hồn Dân trí linh thông
Truyền thống Cha Ông đầy Quyền biến
Quỷ yêu khiếp vía Cội Tiên Rồng.

Hỏi: Việt Nam đã trải qua gần hai nghìn năm đô hộ của ngoại ban. Chúng đã truyền bá nhiều thứ Văn Hóa độc hại, có hại cho Dân Tộc, cho Đất Nước. Làm thế nào đẩy lùi được chúng?

Đáp: Mặt Trời đã mọc, thời Trăng - Sao mờ dần, rồi biến mất. Tự nó biến mất, vì ánh sáng của nó đã bị ánh sáng Mặt Trời che phủ, bao phủ.
Đôm Đốm khó mong sáng trước đèn
Mặt Trời xuất hiện, thấy sao chăng
Ánh sáng lai căn liền biến mất
Trời Nam rực rỡ ánh xuân, hằng
Bất chiến nhiên thành cao chót vót
Việt Nam rực rỡ cánh hoa sen
Văn Hóa Cội Nguồn Nền Văn Hiến
Ác tiêu Thiện đến cảnh xuân thăng.

Hỏi: Gần hai nghìn năm đô hộ giặc Tàu. Trăm năm đô hộ giặc Tây. Chúng đã làm lu mờ truyền thống Văn Hóa Dân Tộc ta. Làm cho Con Cháu Việt Nam rơi vào cảnh loạn lạc, mất phương hướng chia năm xẻ bảy không đoàn kết được, thời ta phải làm sao?

Đáp: Còn làm sao nữa, Dân Ta phải học sử ta, Con Cháu Tiên Rồng phải học Văn Hóa Tiên Rồng. Lịch sử Văn Hóa Tiên Rồng là lịch sử Cội Nguồn, liên quan đến lịch sử Nhân Loại con người, toàn thế giới nói riêng toàn Vũ trụ nói chung. Không phải lịch sử của sự đấu tranh, tranh giành quyền lực. Mà là lịch sử Chính Nghĩa vì hòa bình, chống bạo ác. Chống Độc Quyền làm hại Nhân Loại trong đó có Nước Việt Nam. Sự đấu tranh Chính Nghĩa là sự đấu tranh ôn hòa, vũ khí của Chính Nghĩa. Là Hiến Pháp Nhân Quyền, Luật Pháp Tự Do, Công Lý Công Bằng xã hội. Nói lên ý nghĩa hai chữ Đồng Bào thiêng liêng.
Từ thuở Cha Ông đến nhân gian
Long Hoa dãy núi nở Hoa vàng
ÂU CƠ một bọc trăm con trẻ
Ra đời chung sống ở thế gian
Một nữa lên non còn về biển
Lưu truyền nòi giống, nở cháu con
Rồng Tiên một Cội niềm linh hiển
Bào Bọc chung nhau Cội vàng son.

Dù cho con Cháu Việt Nam có lưu lạc đến nơi đâu, cũng mãi mang hai chữ Đồng Bào trong dòng máu Tiên Rồng Đại Việt.
Nước đã ra đi, Nước về Nguồn
Một Bào một Bọc Cội tình thương
Sử ta, ta học, ta ca hát
Một Cội trăm nhành nở Hoa Hương
Truyền thống Cha Ông nền Chính Nghĩa
Chóa rạng Trời Nam sử Hùng Vương
Lịch sử vàng son còn vang mãi
Ngấm vào Con Cháu giống Rồng Tiên.

Lịch sử Ông Cha hào hùng. Thấm đượm Đạo Đức Nhân Văn Cao. Phần lớn là do thất truyền, một phần do ngoại xâm đô hộ, phá sạch, đốt sạch, quét sạch, tiêu diệt sạch. Để ngoại xâm dễ cai trị. Dễ bề khống chế Tinh Thần Con Cháu Rồng Tiên.
Lịch Sử Cha Ông lịch sử vàng
Hào hùng diệt quỉ dựng Nước Non
Lãnh Nam trận chiến rền Trời Đất
Quét sạch Yêu Tinh Chí ngút ngàn
Ngày đêm khai phá miền đất mới
Bừng bực mọc lên nước Văn Lang
Sử ta, ta học còn không hết
Còn đâu đèo gánh sử ngoại ban.

Lịch sử Cha Ông nhắc lại vẩn còn nghe hơi ấm, nghe vó ngựa chân voi vang rền tiến về Đất Lảnh Nam dựng cơ nghiệp.
Long vân Đại Hội Đạo ngút Trời
Âu - Lạc Hùng Thiên dậy biển khơi
Vó Ngựa chân voi rền dậy đất
Lảnh Nam dựng nghiệp rạng Vua tôi
Văn Lang hùng mạnh rền phương Bắc
Năm nghìn năm trước chẳng xa xôi
Nhắc lại vẩn còn nghe hơi ấm
Ấm Nguồn ấm Cội, ấm lòng ôi.

Hỏi: Con Cháu Việt Nam, dựa vào đâu để có một sức mạnh, chống trả quân thù, nhất là quân xâm lược?

Đáp: Phải nói Con Cháu Việt Nam đang làm chủ một kho tàng sức mạnh. Nhưng Con Cháu Việt Nam chưa bao giờ phát huy hết được, vì chưa khai thông được Cội Nguồn. Nếu khai thông được Cội Nguồn thời Con Cháu Việt Nam, sẽ phát huy cả một kho tàng sức mạnh. Đó là:
Sức mạnh hai chữ Đồng Bào.
Sức mạnh khí thiên sông núi.
Sức mạnh Hồn Thiên Dân Tộc.
Sức mạnh Hồn Thiên Cha Ông.
Sức mạnh Phật - Thánh - Tiên - Thần - Chúa.
Sức mạnh Tổ Tiên.
Sức mạnh Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ.
Sức mạnh bè bạn Năm Châu, năm màu da anh em.

Một khi Con Cháu Tiên Rồng, phát động Văn Hóa Cội Nguồn, phát động truyền thống Cha Ông, truyền thống dựng Nước, giữ Nước, phát động Chủ Nghĩa Đại Đồng, thời sức mạnh Đại Chính Nghĩa ứng theo không có sức mạnh nào mạnh hơn nữa.
Sức mạnh nào hơn mạnh Đại Đồng
Đất Trời vào cuộc chuyển bão dông
Phật Tiên giúp sức Thần Thánh Chúa
Chuyển xây tình thế chuyển Non sông
Hồn Thiên trổi dậy rung Trời Đất
Vó Ngựa vang rền bước Cha Ông
Đồng Bào cuồn cuộn vào cuộc thế
Yêu Tinh, Quỉ dữ mạng tiêu vong.

Con Cháu Rồng Tiên, những người có Tài có Đức, vì Dân vì Nước, vì Cội vì Nguồn, vì Nhân Loại Đồng Bào anh em, mỗi lần phát động phong trào, thời có Tam quang tỏa sáng.
Pháp Tạng bừng lên khắp hư không.
Luật Tạng bừng lên chuyển Đại Đồng
Công Lý sáng ngời vang tiếng sấm
Tam Quang sấm nổ dậy Trời Đông
Gươm Thiên vũ trụ đà xuống thế
Diệt trừ ác Quỉ diệt bất công
Trả lại tự do đời tươi sáng
Bình Đẳng an vui Cội Đại Đồng.

Long Hoa Mật Tạng. Quốc Bảo Chân Kinh. Là bộ Kinh không những tối Đại Linh Thiên. Quý hiếm vô cùng, không những là con đường về Trời mà còn là chiếc chìa khóa vạn năng mở tung vũ trụ, khai thông trí huệ, đạt đến cảnh giới Chánh Đẳng Chánh Giác. Bất tử trường sanh, chuyển họa thành phúc, chuyển phàm lên Thánh, lên Phật, lên Tiên. Cứu Dân cứu Nước. Phải nói là hết sức vi diệu thậm thâm khó mà luận bàn cho hết được.
Quốc Bảo Chân Kinh quí vô cùng
Một lời khen ngợi mãi giàu sang
Huống chi truyền bá gieo Công Đức
Họa tiêu phước đến Chúa đăng đàn
Mật Tạng Chân Kinh Trời trao xuống
Cứu Dân cứu Nước khổ lầm than
Chuyên tâm đọc tụng, luôn trì niệm
Huệ khai trí sáng trổ ông Hoàng.

Việc làm vì Chính Nghĩa dù nhỏ như sợi lông, cũng vô cùng giá trị, không có một thứ giá trị nào sánh kịp. Long Hoa Mật Tạng Kinh. Là Kinh giáo Mật Tạng vũ trụ, hiện thân Chính Nghĩa. Con Cháu Việt Nam phải hết sức gìn giữ. Và sự gìn giữ đó, chính là phổ biến khắp cùng thế giới, không phải cất dấu bí mật. Chỉ cần gìn giữ bảo mật bản gốc mà thôi.
**************

CHỦ BÚT

CAO  ĐỨC  THẮNG

0 nhận xét: