QUỐC BẢO CHÂN KINH
VĂN
LANG
CHIẾN
SỰ
1
THIÊN ẤN THIÊN BÚT
GÒ HỘI
ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI
2005
Đinh Hùng Chung
QUYỂN 1
PHẦN 1
Có sinh có tử luật xưa nay.
Tổ Tiên Tạo Hóa đã an bày.
Hết mưa tới nắng đời là thế.
Hết thịnh rồi suy vốn xưa nay.
Cách đây năm nghìn năm.
Hùng Vương Quốc Tổ là con của Kinh Dương Vương. Mở rộng đất đai vào Nam. Khai lâp ra nước Văn Lang, cùng văn hóa Cội Nguồn Tiên Rồng, ra đời Hiến Pháp nước Văn Lang, nền Quốc Đạo Tiên Rồng dân tộc. Mở ra thời đại mới, thời đại văn minh tinh thần lẩn vật chất. Có một không hai ở giai đoạn nhân loại con người thời kỳ ấy.
Vua Hùng lên ngôi Quốc Vương Hoàng Đế năm 25 tuổi, ở ngôi Quốc Vương 79 năm thọ 104 tuổi. Truyền ngôi cho con cả là Hùng Qúi Lân 2880 trước Công Nguyên, ở ngôi Quốc Đạo 3 năm thời về Trời. Rồi cứ thế lần lược con, cháu các Vua Hùng kế vị Quốc Vương trị vì Thiên hạ. Nối nhau được 23 đời. Đời Hùng Vương thứ 23 không có con trai. Hùng Dịch Lang đành phải lập cháu. Con của Hùng Cừ dòng thứ. Là Hùng Vân Lang lên ngôi Quốc Vương. Niên hiệu Hạ Hùng Vương đời thứ nhất 1232 năm Nhâm Dần trước Công Nguyên.
Thời dựng nước 79 năm thời Quốc Tổ Vua Hùng.
Thời giữ nước, mở rộng thêm đất nước 2622 năm.
Thời con, cháu kế vị các Vua Hùng. Tổng cộng thời dựng nước, thời giữ nước của các Vua Hùng là 2701 năm. Nhà nước Văn Lang ra đời 2959 trước Công Nguyên.
**************
PHẦN 2
Văn Lang Độc Lập mấy nghìn đời
Nào phải không người chớ dễ ngươi
Con cháu Tiên Rồng luôn yêu nước
Hiếu trung truyền thống dễ mà xơi.
Nước Văn Lang: Bắt giáp Hồ Động Đình. Tây Bắc giáp Ba Thục. Tây giáp sông Hồng Lạc tức là sông Mê Công ngày nay. Ở thời Thượng Hùng Vương, Nam giáp Đèo Ngan. Ở thời Hạ Hùng Vương Nam giáp Hồ Tôn giáp giới Quảng Nam. Đông giáp biển Nam Hải, Đông Hải.
Nước Xích Qũy đươc mở rộng vào Nam lên tới 23 Bộ thành nước Văn Lang. Có hai Kinh Đô chính. Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ là Kinh Đô cổ có từ thời Viêm Đế Thần Nông trên đất Giao Chỉ.
Còn Kinh Đô Văn Lang trên vùng đất Phong Châu Nghĩa Lỉnh Phú Thọ, là Kinh Đô có từ thời Hùng Vương. Cũng từ đây nền Quốc Đạo Tiên Rồng mở màng Hiến Pháp nước Văn Lang. Thượng trị Quốc Đạo, hạ trị Quốc Hội. Trên thi hành Đạo, dưới thi hành Luật, đồng nghĩa thời nay. Thượng viện Quốc Đạo. Hạ viện Quốc Hội, trên ban hành Công Đạo, dưới ban hành Công Luật. Nền Quốc Đạo không truyền xuống dân, mà chỉ truyền xuống Vua. Rồi Vua truyền xuống Quan ở hàng Vương tộc, Châu - Bộ .
23 Bộ thời Văn Lang dựng nước, được duy trì hết thời thượng Hùng Vương. Đến thời hạ Hùng Vương 23 bộ xác nhập lại còn 15 bộ đó là:
1: Bộ Giao Chỉ
2: Bộ Chu Diêm
3: Bộ Vũ Ninh
4: Bộ Phú Lộc
5: Bộ Việt Thường
6: Bộ Ninh Hải
7: Bộ Dương Truyền
8: Bộ Lục Hải
9: Bộ Gia Ninh
10: Bộ Nhật Nam
11: Bộ Cữu Chân
12: Bộ Bình Văn
13: Bộ Tân Hưng
14: Bộ Cữu Đức
15: Bộ Văn Lang
Nước Văn Lang tuy xác nhập còn 15 Bộ. Nhưng có tới hàng nghìn Châu, Huyện. Đất đai rộng lớn vô cùng, rộng lớn hơn thời thượng Hùng Vương, giàu có trù phú vô cùng.
**************
PHẦN 3
Văn Lang Độc Lập thái bình ca
Xuân nở đầy xuân gấm đầy nhà
Bổng đâu sấm nổ từ phương Bắc
Giặc Ân tham vọng dấy binh qua.
Thời hạ Hùng Vương đời thứ 3 Hùng Tiên Lang lên ngôi Quốc Vương trị vì thiên hạ thay Cha Ông Nội Hùng Yên Lang 1141 trước Công Nguyên. Non sông đất nước thái bình an lạc, đời sống lên cao, dân giàu có, của Báu đầy nhà. Hoa khôi xuất hiện khắp nơi, tin đồn vạn cõi. Bay đến tai Ân Thọ Vương Vua Trụ. Đời Ân Vua Trụ là tay háo sắc, háo chiến, hung bạo, tham lam, độc ác. Lúc nào cũng muốn độc bá thiên hạ, luôn luôn đi ngược lại lời dạy của các bật nhơn hiền, nghịch Thiên, ác Đạo. Nghe tin đồn phương Nam giàu có, gái đẹp như Tiên nữ giáng trần. Sơn hào, hải vị, món ngon vật lạ, ngọc ngà châu báu khắp nơi. Thời lòng thèm muốn nỗi lên, đến nỗi ăn không ngon, ngũ không yên. Lúc nào cũng nghỉ đến xâm lược thôn tính nước Văn Lang. Cho đến một hôm Vua Trụ không kèm lòng nỗi nữa, liền thực hiện làm theo ý muốn của mình. Thường thường Vua Trụ lâm triều hơi muộn. Nhưng hôm nay lại khác hơn mội khi, Trụ Vương nét mặt rạng rỡ, nhưng không dấu nỗi đầy vẻ tham vọng, khi thấy các Quan, Tướng đến chầu đông đủ. Chiểm chệ trên bệ rồng, Trụ Vương tiếng nói oan oan như sấm, hai con mắt tóe lửa, nhìn chòng chọc đầy hung khí, ai nhìn thấy cũng phải khiếp sợ, với hàm râu quay nón dài thòm vểnh ngược như muốn ăn tươi nuốt sống ai đó.
Trẩm nghe nói ở phương Nam Độc Lập gần hai nghìn năm, uy danh các Vua Hùng lừng lẫy, xem thường phương Bắt chúng ta. Từ thời Nghiêu, Thuấn nhà Hạ, đến đời nhà Thương ông cha ta. Có trên dưới nghìn năm. Đều kiên dè Nam Ban Văn Lang. Có lẽ vì thế Nam Ban Văn Lang coi thường phương Bắc chúng ta. Đời tiền nhân kiên dè, nhưng đời ÂN THỌ VƯƠNG ta thì không. Ta phải làm cho chúng biết thế nào là sức mạnh phương Bắc ta. Không những đất phương Nam, mà ngay cả đất Băc chúng ta. Những nước không tùng phục, thời ta cũng phải xóa sổ chúng làm bá chủ thiên hạ. Càng nói Trụ Vương càng đắc ý.
Trẩm nghe đâu thời hậu Hùng Vương, chỉ là những vị Vua tầm thường, chẳng tài cán chi. Trẩm còn nghe nói nước Văn Lang giàu có, không những sơn hào hải vị, món ngon vật lạ, ngọc ngà châu báu như núi như non. Lại thêm văn minh nông nghiệp lúa nước, hạt ngọc ấm no, khai thát đồng thau, sắt thép vượt bật. Nhất là thép quí hiếm vô cùng. Vua Trụ càng kể càng nổi lên thèm khác tột độ. Không những Vua mà ngay cả Quan cũng nỗi lên sự thèm khác như vậy. Nếu thu phục được nước Văn Lang, gồm thâu Thiên Hạ Nam Bắc về một mối. Lập lên kỳ tích mà từ xưa tới nay chưa ai làm nỗi. Nhà Ân sáng chói có một không hai, trong lịch sử nhân loại. Có lẽ lòng háo chiến, háo thắng, dã tâm, tham vọng quá lớn. Nên đã làm lu mờ lý trí Vua Trụ. Lượm lặt thông tin không chính xác. Dẩn đến đánh giá thấp nhân tài, thực lực của nước Văn Lang. Thừa Tướng Thương Dung thấy Trụ Vương xem thường nước Văn Lang thời than thầm rằng. Có lẽ cơ nghiệp nhà Thương sắp hũy diệt, nên bệ hạ mới nỗi lên lòng háo chiến, ngạo mạng xem thường Nam phương Văn Lang, liền khuyên can Vua Trụ rằng.
Muôn tâu bệ hạ: Nam Ban Văn Lang không phải tự nhiên mà giàu có, Độc Lập kéo dài như thế, điều có cái gốc rễ nguyên nhân của nó. Đó chính là nền Quốc Đạo dân tộc. Hiến Pháp của nước Văn Lang, Hiến Pháp nền Quốc Đạo. Mới thật là Vua của nước Văn Lang. Các Vua Hùng nối nhau phò trì nền Quốc Đạo nầy. Đánh bại Vua Hùng thời có thể làm được. Nhưng đánh bại nền Quốc Đạo Tiên Rồng thì. Thừa Tướng Thương Dung không giám nói nữa. Vua Trụ nỗi nóng quát! Thì sao Thừa Tướng không nói tiếp. Thương Dung ấp a..ấp úm. Thừa Tướng cứ nói ta không bắt tội.
Muôn tâu bệ hạ: Thắng người thời dễ, nhưng thắng Đạo, thời từ xưa tới nay chưa có ai làm nỗi. Huống chi là nền Quốc Đạo Tiên Rồng Hiến Pháp khai dựng lập lên nước Văn Lang.
Muôn tâu bệ hạ: Nam Ban Văn Lang là một cường quốc vô cùng lợi hại. Lợi hại cả hai mặt, về tinh thần lẩn vật chất. Đất đai rộng lớn, rừng núi hiểm trở, sông ngòi, kinh rạch chằng chịt. Đúng là nơi Hổ ẩn Rồng nằm vô cùng bí hiểm. Nên gần 2000 năm Độc Lập giữ vững chủ quyền. Không phải là không có lý do. Vua Trụ nghe cũng có lý thời thừ người. Nét mặt buồn thảm vô hạn.
Vưu Hồn - Bí Trọng thấy Vua Trụ mất vui, liền tâu rằng. Muôn tâu bệ hạ: Nước Văn Lang thế nầy thế nọ. Chẳng qua là lời đồn, còn thực tế ra sao thời chưa tỏ rõ. Hùng Tiên Lang chỉ là vị Vua tầm thường. Chỉ lo an hưởng thái bình vui thú núi non. Các thân Vương, hầu Vương cũng vậy, bất tài vô dụng, béo mập chẳng nên tích sự gì. Có lẽ đây là cơ hội lập lên nhà Ân rộng lớn uy danh chúng ta, thống nhất thiên hạ Nam Bắt mở ra trang sử mới, trang sử hào hùng thời Ân.
Trụ Vương đang u sầu, nghe Vưu Hồn - Bí Trọng nói có lý, tân bốc sướng tai khoái chí vô cùng. Thấy Trụ Vương đắc ý nghe lời sàm tấu của loài nịnh hót Hồ tinh. Mai Bá tâu rằng: Ở đời Thái Hậu, đất Ba Thục có hai vị Chúa Vương là Hồ Xương, Hồ Quảng, Thần thông Pháp thuật vô biên. Có dã tâm lớn muốn nuốt nước Văn Lang. Nhưng đều thất bại bỏ mạng tại sa trường. Sau đó thời tới giặc Hung Di Mũ Đỏ. Là thứ giặc hung hiểm vô cùng, bước chân lên đất Văn Lang liền bỏ mạng không có ngày về.
Triệu Khải tâu thêm: Muôn tâu bệ hạ: Hạ Thần lâu nay vẩn nghe nói nước Văn Lang có bảy thanh Bảo Kiếm vô cùng lợi hại. Báu vật trấn Quốc, do Quốc Tổ Vua Hùng truyền lại. Nhờ thế nước Văn Lang vững bền Độc Lập, quân Văn Lang bất khả chiến bại.
Vua Trụ nghe Triệu Khải tâu thế mặt liền biến sắc, thấy Triệu Khải đề cao nước Văn Lang nhân tài báu vật thái quá, Sùng Hầu Hổ liền lên tiếng. Sùng Hầu Hổ tính tình mười phần giống Vua Trụ tám chín phần. Háo sắc, hung dữ, tham lam, xưng hùng xưng bá, luôn coi thiên hạ ở dưới chân. Nghe Thương Dung, Mai Bá, Triệu Khải đề cao đất Nam. Nhân tài, vật báu, Quốc Đạo thái quá. Làm giảm uy phong đất Bắc thời đại bành trướng nhà Ân, thời liền tâu lên Vua Trụ rằng. Muôn tâu bệ hạ: Đời Ân ta so với các đời trước thời thế lực, vật lực, binh khí, nhân tài mạnh lên gấp hàng chục lần. Có thể nói là tột đỉnh. Nếu đem so với nước Văn Lang về mặt nào chỉ có hơn chứ không kém. Nhân sự, quân sự, chính trị, binh lính, đều hơn hẳn nước Văn Lang, gấp đôi, gấp ba, gấp bốn lần. Hơn nữa đất Ba Thục là do đời Ân ta cai quản. Hồ yêu, Hồ ma là con cháu của Hồ Xương, Hồ Quảng, từ thời nhà Hạ di cư xuống. Nên có mối tình giao hảo thời Ân Thương chúng ta. Sức mạnh đất Bắc chúng ta dời núi lấp sông. Chưa giao chiến sao biết là không thắng. Theo tôi nghỉ nước Văn Lang chỉ là con cọp đất nắn nặn lên mà thôi. Trụ Vương thấy Sùng Hầu Hổ gải đúng chổ ngứa, khoái chí cười lên ha hả. Ta cũng muốn xem Nam Ban lợi hại như thế nào. Thấy Vua Trụ đã Quyết, các Quan các Tướng chẳng giám hớ môi.
Đây nói về Vi Tử Khải, Vi Tử Điển là anh của Vua Trụ. Không được chọn lập lên ngôi Hoàng Đế. Tuy không phản đối nhưng lòng lúc nào cũng buồn rười rựơi. Nghỉ! Đây là cơ hội ngàn vàng. Nếu chiếm được nước Văn Lang thời ta xưng Vương ở đó. Mặc sức tha hồ mà hưởng. Liền tâu lên Vua Trụ rằng. Hạ Vương cũng muốn tham gia cuộc chiến lập công góp sức cùng Bệ Hạ Vua Trụ lấy làm ngạc nhiên, không nghi ngờ gì phê chuẩn cho đi Thế là:
Lòng tham bùng dậy đá sắt tiêu
Bất chấp lời khuyên chết cũng liều
Binh hùng tướng mạnh rền đất Bắc
Hung tin nghìn dặm sấm vang kêu
Bầu trời u ám sa bảo táp
Beo gầm sói hụ hiện quỹ yêu
Cuồn cuộn mây đen bay cùng khắp
Trời Nam dân chúng khổ lên nhiều.
***************
PHẦN 4
Tiên Lang đang niệm Cha Trời
Bổng đâu ngọn gió lạnh người bay qua
Hiện đầy quỹ dữ yêu ma
Gươm đao giáo mác bay ra mịt mù
Máu xương đầy khắp hoang vu
Quê hương lửa dậy âm u đen ngòm
Tiên Lang lo lắng bồn chồn
Hợp liền quan tướng, kế bàn chuyển xây.
1141 trước công nguyên Hùng Tiên Lang lên ngôi Quốc Vương. Non sông đất nước thái bình an lạc, ngô, lúa, sắn, khoai. Nông, lâm, ngư, nghiệp luôn luôn được mùa lớn. Biển lặng sóng êm, giao thương thuyền bè buôn bán tấp nập. Ao hồ sông rạch tôm cá đầy ghe. Danh lam thắng cảnh. Ca, múa, chiên, trống, hội hè. Người chen sắc áo, hoa thắm đua khoe. Ấm tình non nước, ấm nghĩa bạn bè. Hè già nắng dịu, nẫy đọt non thu.
Nơi đền thờ. Hùng Tiên Lang đang thành tâm niệm Đức Cha Trời Lạc Long Quân. Địa Mẫu Âu Cơ. Thời bổng có một cơn gió dữ nỗi lên. Làm đèn nến tắc sạch. Hiện lên đầy Cáo Sói, Ma Qũy hung tợn. Hùng Tiên Lang giật mình lo sợ. Không hiểu điều gì sắp xảy ra. Lại thấy binh lữa dậy trời, người chết như rạ. Máu xương đầy khắp Giao Chỉ. Hùng Tiên Lang liền cho người thông báo khẩn cấp, các bộ các châu về họp.
Thường thường hàng năm hai lần họp. Đều ở Cung Hạ Trị Quốc Hội. Nhưng nay cuộc hộp bất thường lại khác hẳn cuộc hộp ở Cung Thượng Trị Quốc Đạo, nên các quan tướng cũng đánh giá được phần nào tầm quan trọng của cuộc hộp bất thường nầy .
Có thể nói là tối quan trọng, liên quan đến sự an nguy Tổ Quốc. Nên sắc mặt các vị quan tướng người nào, người nấy tỏ vẻ hết sức căn thẳng. Nơi Cung Thượng Trị Quốc Đạo. Thái Thượng Hoàng Hùng Yên Lang cùng Hùng Tiên Lang ở đó đợi các vương, các quan, các tướng đến họp. Hương trầm nghi ngút trước Tiên Linh 24 vị Quốc Vương đã về trời, ngôi cao nhất chính giữa ngôi Quốc Tổ Hùng Vương: Trên Quốc Tổ là hai Đấng Tiên Rồng, Cha Trời Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ.Còn hai bên tả hửu dưới ngôi Quốc Tổ. Một bên là Thượng Hùng vương. Một bên là Hạ Hùng Vương.
Thượng Hùng Vương: 23 Linh Vị từ cao xuống thấp
Hạ Hùng Vương: 1 Linh Vị ở trên cao cánh hữu. Linh Vị Hùng Vân Lang, đời thứ nhất hạ Hùng Vương. Thứ 24 thời Hùng Vương.
Ai bước vào Cung Thượng Trị Quốc Đạo cũng điều thấy khiếp sợ, trước tài năng uy Đức của các Quốc Vương Thánh Tổ. Lúc bấy giờ nơi Cung Thượng Trị Quốc Đạo. Bá quan văn võ đủ mặt chẳng thiếu một ai. Hùng Tiên Lang đi ngay vào ý chính. Kể lại câu chuyện cách đây bảy hôm. Trẩm đang niệm danh hiệu Đức Cha Trời. Thời một chuyện lạ lùng rùng rợn xảy ra. Hùng Tiên Lang kể lại không bỏ sót một chi tiết nào. Nghe xong các Vương, các Quan, các Tướng ai nấy cũng đều kinh hải. Trong số các Vương gia, có Cao Hầu Tể Vương Gia là con cháu lâu đời của Cao Tông, Cao Tổ. Là người giỏi về Thiên văn, địa lý, dịch lý, tướng số, thuật số, đón mộng, Tiên liệu như Thần. Nghe Quốc Vương kể xong liền co tay bấm quẻ, mặt liền biến sắc. Các Vương, các Quan, các Tướng, không khỏi lo lắng đồng nghỉ việc gì sắp xảy ra.
Cao Hầu Tể Vương tâu với Quốc Vương rằng, muôn tâu Quốc Vương, hạ quan thấy những ngày gần đây, trên bầu trời các chồm sao sáng lên một cách kỳ lạ, hạ quan nghỉ mãi. Bổng một hôm hạ quan thấy mình bay lên trời, tới những vì sao sáng ấy, đó là những chồm sao gần miền hạ giới, hạ hạ Thiên Vũ Trụ, những chồm sao sáng ấy chưa có ngôi chủ quản, nên đã phát ra hung tinh, thiện tinh xung phá lẫn nhau, mỗi ngày một thêm dữ dội.
Không lẽ Huyền Cơ Vũ Trụ đã chuyển đến giai đoạn phong thần, ý Trời chọn người chủ quản cho đủ số bộ máy huyền vi Vũ Trụ. Nếu thế thời cuộc phong thần sắp xảy ra.Thái Thượng Hoàng, Hùng Yên Lang nói, không lẻ cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc lại rơi vào cuộc phong thần? Cao Hầu Tể vương nói: Muôn tâu Thái Thượng, chúng ta là con cháu Tiên Rồng, giai cấp cao quí Vũ Trụ, giai cấp phật Thánh Tiên. Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là cuộc chiến tranh chính nghĩa, không phải là cuộc chiến tranh xưng hùng, xưng bá, mà cuộc chiến tranh tự vệ theo Thiên luật hành trì, giữ vững cán cân công lý, bảo vệ độc lập tự do, nhân quyền, bình đẳng công bằng theo thiên luật tôn trọng lẩn nhau. Vì vậy hi sinh bảo vệ Tổ quốc giữ vững chủ quyền độc lập là sự hi sinh cao cả, nếu Trời có phong cũng chỉ phong Thánh mà thôi.
Thái Thượng Hoàng nói: ta cũng nghỉ như vậy và ta cũng đã nhớ lại, các thời Tiên Vương truyền xuống giai đoạn phong Thánh sau phong Thần ba nghìn năm Hội Long Hoa khai mở. Đó là thời kỳ Quốc Tổ lâm phàm trở lại, mở ra Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng toàn thế giới. Đó là việc xa xôi vì phong Thần chưa xảy ra chúng ta không nên bàn tới nữa, mà hãy bàn về chuyện sắp xảy ra đối với non sông Tổ quốc chúng ta. Cao Tể Vương cho biết việc Kiết - Hung của toán quẻ vừa rồi. Xin tuân lịnh Cao Hầu Tề Vương nói, muôn tâu Quốc Vương có lẽ nước Văn Lang chúng ta đi vào cuộc chiến chưa từng có ở thời ông cha ta. Quân Bắc giặt Ân đang dốc toàn lực lượng xâm lượt nước ta với quy mô lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh nhân loại, thế mạnh dời non lấp biển.
Thời ông cha ta dựng nước Xích Quỹ, dựng nước Văn Lang. Đã chém không biết bao nhiêu là chúa Yêu, chúa Quỹ, thuồng luồng, chồn, cáo, sói, rắn, hổ, báo. Nhất là Hồ Tinh - Ngư Tinh - Mộc Tinh lợi hại vô cùng. Nay chúng đã đầu thai làm người phần đông đều ở phương Bắc. Dọc theo các con sông lớn từ thượng nguồn cho đến hạ nguồn, như sông Hoàng Hà, Trường Giang v..v.. và các con sông phụ lưu khác. Có cơ hội là chúng trả thù tiêu diệt chúng ta ngay và cơ hội thời cơ đó đã đến. Chúng đã hội tụ đủ nhân quyền tạo dựng được binh hùng tướng mạnh và đã bắt đầu di chuyển lực lượng xâm lượt thôn tính nước Văn Lang ta, yêu khí, hung khí xông lên làm cho Trời Đất u ám đến kinh người. Muôn tâu Quốc Vương. Chúng ta khẩn cấp cho cuộc chiến, dốc toàn lực lượng chống trả một còn, một mất nầy.
Tây Thục Hầu nói: Ta sợ gì chúng, loài ăn cướp chồn, cáo Yêu Tinh. Tuy nước Văn Lang ta sóng yên, biển lặng, thái bình độc lập đã lâu, nhưng nhờ vào nền Quốc Đạo, nên con cháu Tiên Rồng lúc nào cũng bền vững ý chí. Muôn người như một nhứt hô bá ứng. Ta hãy cho chúng biết thế nào là truyền thống anh hùng dân tộc. Đã dẫm chân lên đất Văn Lang, thời không có ngày về, thây phơi chật đất, làm phân cho cỏ cho cây. Hùng Tiên Lang nói: Văn Lang chúng ta xưa nay nhân tài mọc lên như nấm, địa hình phức tạp, núi non hiểm trở, sông - lạch chằng chịt, rừng đồi cùng khắp với địa hình này ta không bao giờ sợ chúng. Thục Vương nói: Muôn tâu Quốc Vương, đúng vậy đúng vậy. Đất Tây Bắc Văn Lang sẽ là nơi vùi xác chúng.
Hùng Cao Lang nói: Nam Kinh Xích Quỹ, Giao Chỉ là vùng đất Tổ của ông cha ta có bề dày lịch sử hơn ba nghìn năm. Đã từng đánh tan quân xâm lược Bắc giữ yên bờ cõi, là vựa lúa lớn nhất của nước Văn Lang ta, cũng là nguồn thủy sản lớn nhất cung cấp cho cả nước. Bắc Giao Chỉ là sông Nam Trường Giang. Nam Giang chỉ là sông Tây Giang. Quân xâm lược sẽ vùi chôn nơi đây, không còn một mạng sống sót trở về.
Cao Lạc Hầu vương thưa. Muôn tâu Quốc vương Đông Hải Văn Lang xưa nay là thế mạnh của thủy chiến, không những mạnh về thủy chiến mà còn mạnh cả về bộ chiến rừng, lạch chằng chịt âm u. Quân xâm lược sẻ bỏ mạng, thân xác làm mồi cho tôm cho cá. Trị cái tội xâm lược ngông cuồng của chúng. Thấy khí phách hào hùng của các bật Vương - Quan - Tướng. Hùng Tiên Lang lấy làm vừa lòng nói chúng ta là con cháu Rồng Tiên thời không có gì phải tham sống sợ chết. Tức thời hàng loạt kế sách, sách lược, chiến lược, chiến thuật được nêu ra bàn bạc thảo luận nắm lấy mọi chủ động, mọi cơ hội, mọi thời cơ ứng biến tiêu diệt địch.
**************
PHẦN 5
Nói về Vưu Hồn Bí Trọng ngày đêm xúi giục Vua Trụ xâm lăng tiêu diệt nước Văn Lang, thấy ý mình đã đạt. Trong lòng lấy làm sung sướng đánh một giất ngủ ngon lành. Bổng thấy hồn mình lạc đến U Hồn Cốc ra mắt Chúa Vương, là một con cáo già bảy đuôi. Vưu Hồn Bí Trọng lạy, chúng con ra mắt Chúa Vương. Chúa Vương hỏi, hai con theo hầu Chúa Tổ có khổ lắm không? Vưu Hồn Bí Trọng ngơ ngát không rỏ Chúa Tổ là ai. Nhưng không dám hỏi. Chúa Vương nói. Các con đã đầu thai làm người, không phải loài Cáo nữa. Nhưng Linh giác vẩn không quên mối thù diệt Tổ, diệt Tông của quân dân Văn Lang cách đây gần hai ngàn năm. Loài Chồn, Cáo ta có cơ hội là trả thù, đòi lại Địa Long Vũ Trụ. Nhưng đã thất bại nhiều lần. Loài Chồn, Cáo ta có đến hàng triệu, dù tu luyện đến đâu, cũng không làm gì được loài người, sẻ bị loài người sát hại. Không dể gì đòi lại Địa Long Vũ Trụ,trả mối hận thù. Chỉ có một con đường duy nhất, là xả bỏ thân Chồn Cáo ngàn năm, trăm năm tu luyện. Đầu thai làm người. Chỉ có loài người mới diệt được loài người, đó là lời nói của Chúa Tổ. Chúa Tổ đã xả bỏ cái thân tinh khí tu luyện hàng triệu năm, để đầu thai làm người mưu đồ nghiệp lớn. Làm bá chủ thống trị nhân loại, trả mối hận thù ngàn xưa, đòi lại Địa Long Vũ Trụ. Không bao lâu nữa, Chúa Tổ Mẫu của loài Hồ Tinh chúng ta cũng sẽ lâm phàm. Nhưng không đầu thai chi mượn xác người. Tuy thân hồn các con là người. Nhưng tâm hồn ý thức vẫn còn loài Chồn, Cáo, dù cho Thần Thánh cũng không phát hiện được. Thôi hai con trở về trần thế đi. Chúa Tinh liền thổi một luồng yêu khí vào hồn người Vưu Hồn Bí Trọng, sau đó thời phất tay một cái. Vưu Hồn Bí Trọng giật mình thức giất mới hay là mình vừa chiêm bao.
Từ đó về sau lúc nào Vưu Hồn Bí Trọng cũng xúi dục Vua Trụ làm nhiều điều đại gian đại ác đối với con người. Nhất là tàn sát con cháu Tiên Rồng, chiếm lấy nước Văn Lang cho bằng được. Vua Trụ càng ngày càng cương quyết, huy động binh hùng tướng mạnh tiêu diệt nước Văn Lang càng sớm càng tốt.
Chồn Cáo xưa nay vẫn âm thầm
Mưu mô tiêu diệt các Vua Hùng
Mài gươm nghìn kiếp trên núi hận
Con cháu Tiên Rồng họa hiểm hung
Bắc phương hung khí đầy trời
Từ lâu muốn nuốt Nam thời Văn Lang
Quân hùng tướng mạnh rền vang
Giáo gươm ngun ngút loáng loang kinh người
Trường gian sóng dậy ầm ầm
Lớp sau lớp trước cuộn cuồn tiến qua
Cậy mình quân tướng tài ba
Lòng tham vô đáy Trời coi ra gì.
Trên đồi Vọng Đọ người ta nhìn thấy quân Ân đông như kiến, trùng trùng điệp điệp lan lan lớp lớp gươm giáo sáng ngời. Xe ngựa mịt mù có hơn trăm vạn, ai nhìn thấy cũng thất kinh. Không bao lâu vượt qua Bắc sông Trường Giang, tiến thẳng về Nam sông Trường Giang. Cách Nam sông Trường Giang hơn khoản 6 hoặc 7 dặm, thời hạ trại đóng quân tại đó.
Vua Trụ hạ trại đóng quân chưa được bao lâu, thời có quân vào báo. Bẩm Chúa Công hơn 50 trấn chư hầu lớn nhỏ đã kéo đến, tổng cọng trên dưới 60 vạn. Qủa là con số không nhỏ Vua Trụ nói: Quân ta đã lên tới 160 vạn quân thời quân Văn Lang chỉ cần thấy đã khiếp rồi. Còn đâu tinh thần để mà đánh. Nói xong cười lên ha hả vô cùng đắc ý.
**************
PHẦN 6
Vì nước vì non kể chi thân
Thịt nát xương tan chẳng ngại ngần
Một mất một còn quân xâm lược
Rồng Tiên truyền thống diệt quân Ân
Trải mật phơi gan, đầy non nước
Vang rền trung hiếu, Đạo cháu con
Cha ông dẹp giặc nghìn đời trước
Kim cỗ rạng danh mãi thường còn
Nói về Hùng Tiên Lang Quốc Vương cùng 50 vạn quân tinh nhuệ. Nhắm hướng Nam Kinh Xích tức tốc lên đường. Khí thế dậy non dậy núi, không bao lâu tới địa phận Giao Chỉ. Suốt dọc đường, hai bên đường dân chúng hết lòng ca ngợi, hết lòng sùng kính, hết lòng ngưỡng mộ dân lên đồ ăn thức uống, lương thực thuốc men đồ gia dụng cần thiết, gốp công gốp của đánh giặc Ân.
Thấy dân vì nước giọt lệ rơi
Tiên Lang thề nguyện khấn giữa trời
Chỉ còn hơi thở ta cũng đánh
Đánh cho lũ giặc nát tả tơi
Đại quân đi gần tới Nam Kinh Xích Qũy. Thời chiêng trống dậy trời cờ bay phất phới. Đó không phải là quân giặc, mà là quân Nam Kinh Xích Qũy đội ngũ chỉnh tề tiếp đón Quốc Vương. Hùng Tiên Lang khen thầm trong bụng. Bổng tiếng vó ngựa vang lên rồm rộp. Một đội kỵ mã mũ giáp chỉnh tề oai hùng tiến tới trước Quốc Vương ra mắt hành lễ. Hùng Cao Lang cởi con ngựa Xích Long Câu to lớn dẩn đầu các quan tướng, xuống ngựa hành lễ ra mắt Quốc Vương. Hùng Tiên Lang xuống ngựa đở Hùng Cao Lang dậy nói miển lễ miển lễ.
Hùng Cao Lang mời Quốc Vương cùng các quan tướng vào thành, đi thẳng vào ngôi Chính Diện. Nơi mà Quốc Tổ Vua Hùng đã sinh ra. Các quan tướng ở Kinh Đô Văn Lang, phần nhiều chưa có dịp ra Kinh Bắc, Kinh Đô Nam Kinh Xích Qũy. Thấy sự giàu có ở đây, còn hơn cả Phong Châu Kinh Đô Văn Lang. Các quan tướng lấy làm kinh ngạc. Sao Quốc Tổ không ở đây mà lại ở Kinh Đô Văn Lang? Nhưng không ai trả lời được câu hỏi nầy. Lại thấy nơi chính giữa cung điện có đôi Quốc Vương Nam Nữ diện mạo phi phàm. Người cha bồng đứa hài nhi, tỏa hào quang. Bức tượng người cha bồng con. Không ai khác hơn là Đức Vua Kinh Dương Vương. Còn đứa hài nhi tỏa hào quang ấy, chính là Quốc Tổ Hùng Vương.
Các quan - tướng nhìn thấy ba bức tượng ấy. Lòng xúc động, như nhìn thấy ở quá khứ hiện ra hết sức thiêng liêng, ăn sâu vào tâm hồn bao thế hệ con cháu Văn Lang. Nhất là Quốc Vương Hùng Tiên Lang không sao cầm giọt nước mắt. Bổng có người vào báo: Có Cao Lạc Hầu Vương đến. Mời Hầu Vương vào, Hùng Tiên Lang ra lịnh. Cao Lạc Hầu Vương vào ra mắt Quốc Vương nói. Xin Quốc Vương tha tội, Hạ quan đến trể. Hùng Tiên Lang cười nói miển lễ. Sau đó thờì Vua tôi an tọa đi vào nghị sự bàn kế sách chống giặc.
Đây nói về Tây Thục Hầu Vương, sau khi rời khỏi Kinh Đô Văn Lang, cấp tốc bay về Tây Thục.
Có câu thơ ca rằng:
Bạch Long Thần Mã ai bì
Ngày đi vạn dặm ai thời cũng kinh
Huống chi gặp lúc ngoại xâm
Ngựa bay vun vút vượt tần núi cao
Hơn tên bắn hơn tên lao
Xé mây xé gió, biết bao oai hùng
Thục Vương anh dũng phi thường
Ngựa người lao vút núi rừng vụt qua
Tây Thục Vương là vị Vương đang cai quản hàng mấy mươi Bộ Lạc, Bộ Tộc vùng Tây Vu rộng lớn từ Tây Bắc giáp Ba Thục, đến Tây Nam AI LAO dân số lên tới vài triệu người.
Bắc Tây Thục gồm những châu lớn như: Di Tây Châu, Ngô Bắc Tây Châu, Hung Hung Tây Châu, Liêu Tây Thượng Châu, Phù Ung Tây Châu, Tam Giang Tây Châu, Lư Tây Trung Châu, Lô Lô Tây Châu, Phiên Tây Thượng Châu, Mân Di Tây Châu, Đinh Giao Tây Châu, Thượng Tây Giang Châu, Uất Lang Việt Châu, Lâm Giang Tây Châu.
Trung Trung Tây Thục Văn Lang gồm những châu lớn như: Tây Âu Châu, Hồng Thượng Thượng Châu, Hồng Lạc Châu, Thạch Vân Châu, Thái Vân Tây Châu, Bộc Tây Châu, Cựu Tây Châu, Thượng Đà Châu, Lai Trung Tây Châu, Âu Điền Châu, Môn Tây Châu.
Nam Tây Thục Văn Lang gồm những châu lớn như: Lao Sơn Thượng Tây Châu, Lao Sơn Tây Nam Châu, Lao Sơn Đông Tây Châu, Thượng Thượng Châu, Đà Thịnh Châu, Vệ Linh Tây Châu, Mã Linh Tây Châu, A Pha Tây Châu, Khơ Khơ Tây Châu, Mường Lai Tây Châu, Điện Linh Tây Châu.
Tây Thục Vương có tới chín người con, chia nhau cai quản toàn lãnh thổ Tây Vu, Tây Văn Lang. Chín người con đó là:
1: Thục Lao
2: Thục Man
3: Thục Di
4: Thục Chăm
5: Thục Liêu
6: Thục Châu
7: Thục Mân
8: Thục Ren
9: Thục Cương.
Đa phần dân chúng Tây Thục Văn Lang đều xưng dân tộc Âu. Khi Tây Thục Vương về đến Tây Thục vào thành Âu Tây, liền cho gọi chín người con đến bàn tính kế sách chống giặc ngoại xâm. Thấy các con đến đông đủ Thục Hầu Vương nói. Quân Bắc sắp xâm lược nước Văn Lang ta các con khẩn cấp về điểm binh mã dốc toàn lưc lượng theo cha đến Nam Kinh Xích Quỹ chống giặc.
Thục Lao nói thưa cha từ khi Quốc Tổ dựng nước tới nay, giặc Hồ, giặc mũ Đỏ, giặc Hung Nô, đã bị ông cha ta đánh tơi bời kinh hoàng khiếp vía, sau này còn dám hó hé. Đồ ếch, nhái mà cũng đòi vuốt râu Hùm sao?
Tây Thục Vương nói các con lầm rồi lần này không phải là ếch, nhái mà là cọp - beo, hổ - báo, Yêu tinh, Quỹ dữ giặc Ân xâm lược nước ta với khí thế long trời lỡ đất. Cuộc chống ngoại xâm lần này là một còn một mất, các con hãy chuẩn bị tinh thần cho thật tốt, đối mặt với quân thù. Các con Tây Thục Vương nghe nói không cải mà muốn gặp ngay quân thù đánh cho một trận biết thế nào lợi hại của con cháu Tiên Rồng.
Đây nói về Hùng Tiên Lang Quốc Vương cùng các Vương, các Quan, các Tướng, bàn kế sách đánh giặc thời có quân vào báo. Tây Thục Vương đã tới xin ra mắt Quốc Vương.Cho mời Tây Thục Vương vào; xin tuân lệnh.
Đi đầu là Tây Thục Vương, sau Tây Thục Vương là 18 võ Tướng cả nam lẩn nữ uy dũng vô cùng. Hùng Tiên Lang khen. Qủa thật Tây Thục danh Tướng oai hùng. Tây Thục Hầu Vương nói. Tâu Quốc Vương đây là dâu, con, cháu lớn của hạ Quan các con ra mắt Quốc Vương đi, tức thời 18 võ tướng bước tới hành lễ nói: Chúng con là con cháu Vua Hùng xin ra mắt Quốc Vương, Hùng Tiên Lang vui vẽ nói miễn lễ, miễn lễ, 18 người con cả dâu lẫn cháu ra mắt Quốc Vương hành lễ xong liền lui ra sau Tây Thục Vương an vị chỗ ngồi.
Hùng Tiên Lang Quốc Vương vẻ mặt đầy nghiêm nghị cho người con man hộp bảo vật trấn Quốc đặc lên hương án, tuyên thệ hành lễ rồi mở hộp ra. Các vương, các quan, các tướng ai nấy cũng đều hồi hộp, bỗng từng chiếc hộp muôn Đạo hào quang tỏa ra vô cùng đẹp mắt, đó là ánh sáng của 6 cây bảo kiếm từ thời Quốc Tổ truyền xuống đến nay chỉ nghe kể, không bao giờ được thấy, chỉ trừ các vị Quốc Vương nối tiếp nhau trị vì Thiên Hạ.
Hùng Tiên Lang kể: Tiên Thiên, Thất Tinh Bảo Kiếm là báu vật có một không hai vũ trụ.
Hùng Vương Quốc Tổ dùng thần thông pháp thuật thu hút Tiên Thiên, Chơn Âm Chơn Dương tinh hoa vũ trụ kết cấu luyện thành hay còn gọi là thất linh Bảo Kiếm, không những uy lực vô biên mà còn theo ý tưởng của con người biến hóa diệu kỳ. Nếu đủ 7 linh kiếm Thiên Tiên vũ trụ, thời Thần Thánh Phật Tiên cũng khó bảo toàn tính mạng huống hồ là loài Yêu ma Quỹ dữ. Chỉ cần 5 linh kiếm Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ là chúng cũng đã đi đời, nay non sông Tổ quốc đi vào cảnh lâm nguy, không còn cách nào hơn là đem bảo vật trấn quốc ra xử tử bọn chúng, càn quét quân xâm lược. Có một điều rất lạ 7 thanh bảo kiếm truyền từ đời Quốc Tổ xuống đến đời thứ 23 thời thượng Hùng Vương nhưng khi truyền qua đời thứ 24 đời thứ nhất Hạ Hùng Vương thời xảy ra chuyện lạ. Hùng Vân Lang lên ngôi Quốc Vương làm lể tiếp nhận 7 thanh báu kiếm trấn quốc. Đang lúc tiếp nhận trong tay đời thứ 23 Hùng Dịch Lang bỗng trời đất tối om rồi sáng lại rất nhanh chỉ trong vòng nháy mắt đã mất đi Thượng Thiên Chủ Kiếm chỉ còn lại Hạ Thiên Chủ Kiếm mà thôi.
Có lẽ Quốc Tổ đã thu Thượng Thiên Chủ Kiếm về Trời rồi cũng nên, sự việc ấy xảy ra cách đây 91 năm và câu chuyện ấy cũng lần lần đi vào quên lãng chỉ riêng các vua Hùng Kế sau luôn luôn nối tiếc và ta đây cũng vậy.
Nay non sông Tổ quốc lâm nguy vì thế ta đem bảo kiếm trấn Quốc ra tiêu diệt quân thù xâm lược bảo vệ con cháu Tiên Rồng, bảo vệ non sông Tổ quốc mà ông cha ta đã bao đời dày công xây dựng. Thời gian cấp bách Hùng Tiên Lang phân bổ lực lượng như sau.
Tây Thục Hầu Vương nghe lịnh: Có thuộc hạ, Hùng Tiên Lang liền lấy thanh Kim Quan Tiên Thiên Bảo Kiếm trao cho Thục Vương Gia nói Hầu Vương dẩn 30 vạn quân chia làm 3 mủi trấn giữ Tây Giang Giao Châu, Dương Giang Châu Kiến Giang Giao Châu, Tam Giang Tây Châu xin tuân lịnh, nhận ấn đồng vải trắng dẫn quân ra đi, Hùng Tiên Lang nói.
Cao Lạc Hầu Vương nghe lịnh: Có thuộc hạ Hùng Tiên Lang lấy Thanh Thủy Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm trao cho Cao Lạc Hầu Vương nói. Hầu Vương dẩn 20 vạn quân trấn thủ Đông Giang Giao Châu, Quế Giang Giao Châu, Lạc Trung Giao Châu xin tuân lịnh, nhận ấn đồng vải đen ra đi, Hùng Tiên Lang lại nói.
Hùng Cao Lang nghe lịnh: Có thuộc hạ. Hùng Tiên Lang lấy thanh Hỏa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm trao cho Hùng Cao Lang nói. Thành Hầu Vương dẩn 30 vạn quân trấn thủ Bắc Giang Giao Châu, Lạc Giang Giao Châu, Kinh Giang Giao Châu, Giao Giao Minh Châu, Quí Linh Giao Châu xin tuân lịnh, nhận ấn đồng vãi đỏ dẩn quân ra đi. Hùng Tiên Lang lại nói.
Điền Điền Lang nghe lịnh: Có thuộc hạ. Con nhận lấy thanh Mộc Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm nhận ấn đồng vải xanh dẩn 10 vạn quân mai phục bảo vệ vòng đai Kinh Đô xích quỹ Hợp giao Châu, Hạt Linh Châu, Lạc Điền Châu, tuân lịnh dẩn quân ra đi.
Diệp Lang nghe lịnh: Có thuộc hạ. Cháu nhận lấy Địa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm nhận ấn đồng vải vàng dẩn 10 vạn quân mai phục tại rừng Tiên Du, dưới chân Hùng Phong Sơn tiếp cho quân Tây Thục, cháu xin tuân lịnh dẩn quân ra đi. Phân bố lực lượng xong Hùng Tiên Lang mới thở phào nhẹ nhỏm. Ở tại Nam Kinh theo dõi tình hình chiến trận, tiếp tục điều động lương thực, quân binh ứng chiến. Thế là cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc đã mở màn.
***************
PHẦN 7
Trùng Trùng Cáo Sói ở kia sông
Tanh máu xông lên bốc nực nồng
Nhe nanh múa vuốt nghe hùng hục
Liếm mép nhìn qua, Tử Giang sông
Nhắc lại bên kia bờ Bắc sông Trường Giang ÂN THỌ VƯƠNG lòng nóng như lửa đốt, mau chiếm lấy nước Văn Lang lên ngôi bá chủ gồm thâu Thiên Hạ về một mối, tùng phục nhà Ân.
Nói về Vi Tử Khải, Vi Tử Điển, luôn luôn nghỉ đây là cơ hội hiếm có để xưng Vương. Lòng háo hức muốn tiến quân đánh ngay, liền tâu lên Ân Thọ Vương rằng Muôn tâu bệ hạ, hạ thần xin nguyện lảnh ấn tiên phong đánh chiếm Nam Kinh Xích Quỹ lập chiến công mở màn thu phục nước Văn Lang, Vua Trụ lấy làm ngạc nhiên nhưng rồi cũng cho đi. Vi Tử Khải, Vi Tử Điển, mỗi người thống lảnh 39 vạn quân chia làm 2 mũi đánh thẳng vào trung lộ Bắc Văn Lang, chiếm lỉnh các thành lớn như: Lạc Giang Giao Châu, Quý Linh Giao Châu, Kinh Kinh Giao Châu, Bắc Giang Giao Châu, Xích Linh Giao Châu, Hợp Giao Châu, sau cùng là chiếm lấy Nam Kinh xích quỹ.
Vua Trụ lại tiếp tục ra lịnh cho Khương Hoàng Nhân, Triều Chấn Lôi, Tử Điền Phi kết hợp với 20 trấn chư Hần lớn nhỏ, Yên, Sở, Triệu, Tề, Tần, Tấn lên tới 50 vạn quân. Tấn công Đông Bắc Văn Lang Đông Giao Chỉ chiếm lỉnh các thành lớn như: Đông Giang Giao Châu, Quế Giang Giao Châu, Liễu Giang Giao Châu, Lạc Trung Châu, Đông Hải Giao Châu, Hạ Linh Châu sau cùng bọc lên tấn công vào Nam Kinh xích quỹ, tuân lịnh.
Trụ Vương lại tiếp tục ra lịnh cho Ngạc Sùng Cảnh, Ngạc Sùng Văn, Triệu Tử Quân, Chu Công Minh, Thiệu Công Tiển, kết hợp với 20 trấn chư Hầu lớn nhỏ, Mân, Chu, Cảo, Phong, Ngân, Lâm, Hồ, Hàn, Ngụy lên tới 50 vạn quân. Tấn công Tây Bắc Văn Lang Tây Giao Chỉ, chiếm lịnh các thành lớn như: Tây Giang Châu, Dương Giao Châu, Kiến Giao Châu, Hồ Tây Châu, Âu Giao Châu, Tam Giang Tây Châu rồi đánh bọc xuống Lạc Điền Châu chiếm lấy Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ.
Hùng Tiên Lang nhìn về phương Bắc, thấy trời đất u ám, sát khí trùng trùng trong lòng không khỏi lo lắng, liền cho quân lập đài cầu Trời gia hộ cho con cháu Tiên Rồng giữ vững non sông Tổ quốc.
Vì Nguồn vì Cội vì Cha Ông
Vì nước vì non dốc một lòng
Ta còn hơi thở, còn chiến đấu
Đuổi quân xâm lược khỏi non sông
Nơi đất Tây Giang Châu, ba anh em Thục Mân, Thục Ren, Thục Cương đang ra sức kêu gọi dân chúng di tản sâu vào Nam lánh giặc, dẩn 10 vạn quân kết hợp cùng quân lính các quận Huyện nhanh chóng trấn thủ thành Tây Giang Châu. Thành Tây Giang Châu là nơi trọng yếu giao thương với các thành gần biên giới yếu huyệt của kinh tế, chính trị, quân sự.Thành Tây Giang Châu, địa thế phức tạp bí hiểm, núi non hiểm trở, xưa nay quân Bắc xâm lược đều khó vượt qua địa phận đất Tây Giang. Nơi thành Tây Giang Châu có vị quan phủ Bố Chính An Lạc Điền là vị quan hiền lành, văn võ song toàn, luyện được đao pháp thượng thừa, có 2 người con 1 nam 1 nữ đều là bật hảo hán anh hùng. Nhận được tin mật báo, quan phủ liền ra lịnh di tản dân nội thành đi nơi khác, thấy quân Văn Lang đến liền mở cổng thành đón 10 vạn quân vào, rồi đi vào nghị sự bàn luận kế sách chống giặc.Thục Mân nói, nếu nói về ngôi thứ thời 3 anh em tôi cùng quan phủ vai vế khác nhau. Nhưng nói về tuổi tác, cũng như kinh nghiệm về chinh chiến, địa hình phức tạp ở đây, thời 3 anh em chúng tôi không bằng đại nhân được, xin đại nhân chỉ bảo cho. Thấy sự ăn nói khéo léo của Thục Mân, An Lạc Điền thầm khen ngợi, nên đã có ít nhiều thiện cảm, không khách sáo chi nữa liền đưa ra phương án chống giặc, theo sáu phương án sau: 1: là thông 2: là cảng 3: là đối 4: là ải 5: là hiểm 6: là viễn. Luận về binh pháp xưa nay giặc chưa hiểu về ta, nên giặc phải chọn nơi đất bình quan cảnh thông thoáng, để dễ tiến, thối khi gặp trở ngại. Theo hạ quan được biết thế giặc tấn công tây Bắc chúng ta lên tới 50 vạn quân trong khi chúng ta chỉ có hơn 10 vạn, vì vậy chúng ta không thể đánh phủ đầu trực diện đối mặt với chúng được, hơn nữa thế giặc chưa mệt mõi, còn đang hưng phấn chiến đấu ngùn ngụt, vì thế trước mắt thủ thành là chủ yếu, chờ giặc phân tán lực lượng ta mới ra tay tấn công. Dựa vào thế cảng nơi có nhiều chướng ngại như Núi, Sông, Kinh Lạch, Rừng, chúng ta mai phục ở đó dụ chúng lọt vào bẩy ra sức tiêu diệt, lúc này mới dùng chiến thuật đối mặt gọi là chặn dồn ép giặc chạy về phía hiểm địa gọi là kế ãi. Cắt đứt giặc ra từng khúc gọi là kế tử. Thế giặc đã lâm vào tử ải thời coi như đã hết đời, chết nơi hiểm địa, giả đò thua dụ địch sâu vào đất Văn Lang, bất ngờ tấn công cắt đứt liên lạc, tiếp viện đưa giặc vào thế cô lập làm cho chúng mất ăn, mất ngủ, bất ngờ đồng loạt tấn công giống như đàn sư tử tấn công con voi, giặc rơi vào thế yếu ngã gục đi đời.
Trong lúc đang bàn kế sách chống giặc, thời có quân vào báo. Quân giặc đã tràng qua ải Tây Giang, đã chiếm lỉnh một số Quận, Huyện. Chúng đang ra sức vơ vét của cải, những người dân tiếc của không chịu di tản bị giặc tàn sát thê thảm.
Ôi thôi làng xóm còn gì
Hùm Beo Cáo Sói mấy khi hiền lành
Đầy mình móng vuốt cùng nanh
Gái tơ hơi hới phải đành nát tan
Dân lành máu chảy loáng loang
Chúng đâm chúng chém ác gian kể gì
Núi thù biển hận kể chi
Rồng Tiên con cháu xông lên diệt thù.
Nói về 50 vạn quân cùng 20 trấn chư hầu lớn nhỏ do Ngạc Sùng Cảnh, Ngạc Sùng Văn chỉ huy. Người ngựa, xe cộ, thuyền bè tiến qua các Quận, Huyện như thát lũ. Càng lúc càng tiến sâu vào đất Văn Lang, hơn 50 dặm, thời trời cũng bắt đầu xẩm tối. Trưới mặt là những rừng đồi lô nhô kéo dài tới dãy núi Hùng Phong Sơn cao vút. Cùng con sông ẩn mình qua bao khu rừng rậm, kinh rạch, ngoằn ngoèo, ngoắt ngoéo uống lượng quanh co qua những vùng thung lủng lau sậy. Như nói lên bao sự huyền bí của vùng Tây Bắc Văn Lang.
Ngạc Sùng Cảnh lạnh cả người, như có gì mách bảo là ngày tử nạn của ông không xa. Ngạc Sùng Cảnh rùng mình không giám nghỉ nữa. Liền cho quân hạ trại, dừng lại không tiến sâu thêm nữa. Ông nói chúng ta đã tiến quân sâu vào đất Văn Lang hơn 30 dặm, vượt qua một số Quận, Huyện, chỉ gặp cảnh vườn không nhà trống, không gặp trở lực nào cả. Điều đó chứng tỏ rằng Quân Văn Lang có chủ ý, không thể không đề phòng, liền cho trinh thám dò đường thám thính tình hình quân địch. Không bao lâu thời thám tử về báo: Trước mặt ta 10 dặm về hướng Nam là vùng gò đồi rừng Mây, thung lũng, lau sậy có nhiều kinh lạch chảy xuống sông Âu. Qua khỏi vùng gò đồi rừng Mây về hướng Tây Nam 8-9 dặm là thành Tây Giang Châu.Suốt cả đêm bọn tướng tá thăng chốt của lũ giặc Ân nổ lực đưa ra kế sách tiến quân thôn tính toàn bộ địa phận Tây Bắc Văn Lang và cuối cùng thống nhất đánh thẳng vào ba yếu huyệt chiếm lấy ba thành.
**************
PHẦN 8
Nói về bộ sậu chủ chốt giặc Ân thảo luận kế sách sáng đêm, tiến quân đánh ba thành. Ngạc Sùng Cảnh điều động quân binh như sau.
1: Triệu Tử Quân nghe lịnh: Có thuộc hạ; Tướng quân điểm 10 vạn quân kết hợp với quân: Chu, Cảo, Phong tiến đánh thành Tây Giang Châu. Tuân lịnh.
2: Chu Công Minh nghe lịnh: Có thuộc hạ; Tướng quân điểm 10 vạn quân kết hợp với quân: Lâm, Hồ, Hàn tiến đánh thành Dương Giao Châu. Tuân lịnh.
3: Thiệu Công Tiển nghe lịnh: Có thuộc hạ; Tướng quân điểm 10 vạn quân: Mân, Ngân, Ngụy. Tiến đánh thành Kiến Giao Châu. Tuân lịnh.
Tiếng gà vừa gáy mộng chưa tan
Ba con rắn độc đã vội vàng
Uốn mình lao tới chân rồm rộp
Các bụi mịt mù trống canh vang.
Mặt trời còn ngủ chưa thức. Trong màn đêm những giọt sương còn nằm chơi trên mái lá. Bổng giật mình khiếp sợ, nhìn ba con rắn khổng lồ dài 8-9 dặm cuồn cuộn há mồm lao thẳng về thành Tây Giang Giao Châu, Dương Giao Châu, Kiến Giao Châu. Cách thành độ hơn 2 dặm thời ba con rắn dừng lại. Cũng là lúc mặt trời thức giất ánh bình minh trở lại với quê.Với cặp mắt cú vọ diều Hâu, Triệu Tử Quân hết nhìn núi non hùng vĩ, sông nước hữu tình. Những cánh đồng lúa xanh thăm thẳm, những đàn cò trắng lã bay qua. Đàn ong bướm bay lượn nhành hoa. Như toác lên đời no ấm xuân hoa. Liền thở dài, thảo nào mà Bệ Hạ không thèm khác sao được. Và trách nhiệm nặng nề của ta là phải chiếm cho được thành Tây Giao Châu. Đây nói về thành Tây Giang Giao Châu, theo kế sách đã hoạch định. Trời vừa xẩm tối, từ nơi cửa thành 1 vạn quân bí mật nhắm dãy núi Hùng Phong Sơn âm thầm lặng lẽ ra đi. Lại 1 vạn nữa nhắm hướng Đông Bắc tới thung lũng rừng Lau Sậy phục kích. Nhìn thấy quân Ân vượt qua sông, vượt qua rừng Mây như thát đổ, vì chưa có lệnh nên không tấn công chỉ im lặng để cho giặc đi qua.
Kìa quân ăn cướp đến rồi
Chúng vơ chúng vét hết thời của dân
Của ngon vật lạ chúng ăn
Cửa nhà chúng đốt sang bằng còn chi
Gái tơ chúng bắt nâng ni
Xài rồi chúng lại bắt đi làm hầu
Miếu thờ chúng kể gì đâu
Gái trai già trẻ chúng xâu một lùm
Đáng ra dân phải lên đường
Vườn không nhà trống lánh nương, giặc càn
Cũng vì tiếc của giàu sang
Giờ đành phải chịu lắm đàng họa tai
Kêu trời khóc đất thảm thay
Trời im đất lặng có hay bao giờ
Kia kìa giặc đã công thành
Rồng Tiên Chồn Cáo phân tranh mất còn.
Đứng trên thành cao, quan văn tướng võ nhìn thấy quân Ân trùng trùng lớp lớp kéo đến cách cổng thành độ chừng hai dặm thời hạ trại. Chận đường ra vào chính yếu của thành Tây Giang Châu. Bổng từ nơi doanh trại của giặc, xông ra một tướng oai phong lẩm liệt, dẩn theo 3 nghìn quân, kéo tới cổng thành dàng trận. Rồi lên tiếng hách dịch quát lớn. Quân cỏ rát thành Tây Châu kia, mau ra qui hàng thời sống, còn chống lại thời chết, khoác lác vô cùng. Thấy tướng giặc hổn xược ngạo nghễ như vậy, không kèm nỗi sự tức giận An Lạc Sơn nói. Thưa cha: Để con ra lấy đầu thằng nhái ranh đó cho. An Lạc Điền nhìn ba vị tướng quân hơi ngần ngại. Thục Mân nói: Lạc Điền tướng quân ra trận hết sức cẩn thận. An Lạc Điền nhìn An Lạc Sơn nói, đây là trận mở màng, chỉ có thắng chứ không được thua. An Lạc Sơn nói, con hiểu rồi.
An Lạc Sơn hăm hở, điểm 3 nghìn quân mở cổng thành xông ra nghinh chiến đón đánh. Thấy tướng giặc nghinh nghinh tự đắc. An Lạc Sơn vốn khôi ngô tuấn tú. Nay ra trận mão giáp chỉnh tề, thể hiện khí chất bất phàm oai phong lẩm lẩm. Tướng giặc Ân, thấy An Lạc Sơn cốt cách oai hùng như vậy cũng phải khen thầm.
An Lạc Sơn giục ngựa xông tới hét lớn. Hãy xưng tên họ rồi chết. Làm phân cho đất Nam ta. Tướng giặc tức quá hét lớn, nhái ranh nay là giỗ của ngươi phi ngựa xông tới chém liền mấy nhác. Tướng giặc Ân ấy không ai khác hơn là Ly Ảnh Quân, con trai của Cảo Hầu Vương. Là người khắc tiếng về Đạo pháp. Có thể lấy mạng đối thủ ngoài mười thước. Biệt hiệu là vô ảnh Đao. An Lạc Sơn nào có kém chi. Nhờ ăn được quả linh chi ngàn năm. Nên đã luyện Đao pháp đến xuất thần nhập hóa. Thế là hai con cọp vồ nhau chí tử. Các bụi mịt mù, ánh Đao chớp chớp, đinh tai nhức óc, rét rét, ầm ầm kinh thiên động địa, kẻ qua người lại như bóng với hình. Chiêng trống rền trời, quân reo dậy đất.
Đúng là:
Một bên vì nước vì non
Một bên xâm lược ác gian kể gì
Đao qua đao lại kể chi
Bình sanh dốc hết lấy đi đầu thù
Đao đà luyện đến hư vu
Cuồn phong lạnh buốt âm u rợn người
Đánh cho tới mãi trời chiều
Bất phân thắng bại khó mà hơn thua.
Thế là hai bên đành thu quân hẹn ngày mai một còn một mất. Vào cung thành, An Lạc Sơn thưa với Thục Vương rằng. Bẩm chủ soái Mạc tướng tội thật đáng chết. Trận đầu mà tôi không lấy được đầu giặc làm mất nhuệ khí ba quân tướng sĩ. Thục Mân nói: Ra trận thắng thua là chuyện bình thường.Thủ hòa coi như là lập được công đầu.
Nói về tướng giặc Ly Ảnh Quân sáng bửa sau xin Chủ Soái ra trận nữa. Triệu Tử Quân nói. Tướng quân nghỉ cho khỏe, nay để cho tướng khác ra trận. Biết Chủ Soái không ưng ý, bằng làm thinh không giám thưa thỉnh nữa.
**************
PHẦN 9
Trời vừa hừng sáng. Quân vào báo rằng. Quân Ân rầm rầm rộ rộ kéo đến gây chiến. Nghe thế tất cả quan tướng đều lên thành để xem. Thấy quân Ân lập lên đài quan sát. Cờ hiệu Chủ Soái Triệu Tử Quân. Quân binh đông ngư kiến. Thời thấy rõ dụng ý của giặc là quyết tâm xóa sổ thành Tây Giang Giao Châu, Triệu Tử Quân đứng trên đài quan sát chỉ huy.
Với cặp mắt cú vọ dều hâu, Triệu Tử Quân phất cờ hiệu lịnh, tức thời cánh tả đài quan sát có một tướng oai phong lẩm lẩm. Đầu đôi Kim Khôi, mình mang giáp đồng, cởi ngựa ô, tay cầm Long đao nặng sáu mươi cân, lách mình tới trước đài quan sát nói. Bẩm chủ soái. Có thuộc hạ. Tướng quân điểm năm nghìn quân kéo tới sát cửa thành, khiêu khích khiêu chiến, làm cho địch ra mặt và tiêu diệt chúng, tuân lịnh. Người tướng ra trận đó không ai khác hơn là Chu Vũ Chương con trai lớn nhất của Chu Công, nổi tiếng là luyện được ngọn chỉ phong vô cùng lợi hai giết người nháy mắt. Dẩn 5 nghìn quân ra trận kéo trước tới cổng thành thách thức phách lối ngạo mạng coi quân tướng Văn Lang như loài ếch nhái, thùng rổng kêu to mà thôi.
Thành Tây Giang Giao Châu, chiêng, trống nỗi lên rền trời rền đất. Ba anh em nhà Tây Thục mở cửa thành xông ra bày binh bố trận đối mặt với quân thù. Thấy tướng giặc Ân ngạo mạn phách lối. Thục Ren nói, để em ra lấy đầu tên giặc cướp này cho hả cơn giận. Liền điểm năm nghìn quân xông tới xáp chiến. Hai tướng như hai con hổ gầm gừ lao tới quật nhau ầm ầm. Thục Ren nhờ có sức mạnh Trời ban, mình mang giáp đồng nặng tới 100 cân, cỡi con ngựa huyết hản cao lớn, trường thương nặng hơn 80 cân lao qua lao lại vùn vụt. Những nhát thương như sấm sét, chưa đầy 30 hiệp, tướng giặc biết mình đánh không lại liền dở tuyệt chiêu vận hết 12 thần công lực, quát lên một tiếng như sấm sét, bàn tay liền đỏ như máu, phóng luôn chín chỉ huyết ma công, chỉ phong xé gió véo véo thật kinh người. Thục Ren bất ngờ tránh không kịp trúng luôn sáu chỉ, có chỉ đã thủng giáp nhưng chưa gây được nội thương. Nếu không nhờ có áo giáp quá dày coi như đã toi mạng. Thục Ren nỗi trận lôi đình, trường thương xé gió ào ào, ngựa người như tia chớp gián xuống ầm ầm. Tướng giặc tay chân rã rời trúng liền một thương chết ngay tại chổ.
Trên đài cao Triệu Tử Quân khiếp vía. Tướng nào mà dữ thế.Thấy con tử trận Chu Công vô cùng đau xót, tức giận đến nỗi râu tóc dựng ngược, cỡi Chiến Mã lao ra, nhắm Thục Ren chém xuống. Đây là loại kiếm báu hiếm quí trên đời, chém sắt, đồng như chém chuối, không hiểu là ai đã luyện đúc ra nó. Chỉ biết là tìm thấy trong hang động. Thục Ren bất ngờ đưa trường thương lên đở, liền bị chặt đứt làm mấy khúc, Thục Ren kinh hãi phi ngựa bỏ chạy. Chu Công nào để cho Thục Ren chạy thoát.
Với chiêu mãnh hổ vồ mồi, đường kiếm như tia chớp chém xuống đầu Thục Ren. Kết liễu kẻ địch trả thù cho con. Thục Ren mạng sống chỉ còn trong đường tơ kẻ tóc. Bổng tiếng quát lanh lảnh thét lên. Ác tặc hãy xem bảo bối của ta đây. Tức thời một Đạo hào quang chụp xuống đầu Chu Công. Chu Công khiếp vía hồn kinh thâu kiếm lại chống đở ầm ầm. Thục Ren thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Tức giận đùng đùng còn lại khúc cán của trường thương, nhân cơ hội Chu Công lo chống đở bảo bối của vợ phóng ra, bị hào quang bảo bối làm chóa cả mắt. Thục Ren lấy Kim lê nhọn hoắt phóng tới một tốc lực kinh người lao nhanh về Chu Công. Thế là một tiếng rú thê thảm làm kinh rợn lòng người. Thục Ren lao tới lấy đầu đối thủ, bổng nghe tiếng quát nỗi lên như sấm. Nghiệt súc hổn láo. Thục Ren bị một luồng kình lực hất bay bổng cả người lẩn ngựa lên cao, ngã nhào lộn trọc. Nàng liền lao mình tới xem chồng có sao không. Thục Ren chưa hết kinh hoàng. Nhìn luồng kình lực đó cuốn hút lấy xác cha con Chu Công cùng thanh kiếm báu vô cùng lợi hại bay ra khỏi trận địa. Nói về nàng Nê Xi xinh đẹp theo chồng xung trận, lòng hồi hộp không yên lúc nào cũng cầm bảo bối trên tay. Thấy chồng sắp mất mạng. Nhanh như tia chớp niệm chú ném bảo bối xuống đầu Chu Công cứu chồng. Sự việc diển biến quá mau lẹ. Thấy Chu Công đã bị chồng mình hạ gục, liền thâu bảo bối lại. Sững sốt kinh hoàng, khi thấy chồng mình cả người lẩn ngựa hất lên cao rớt xuống lăn lông lốc. Nàng liền lao tới thấy chồng không sao. Mới tỉnh hồn. Người có Pháp thuật kinh người đó không ai khác hơn chính là Hồ Ma Yêu. Một tay Pháp thuật kinh người. Thấy giặc Ân chết liền hai tướng, Quân Văn Lang thắng thế. Thục Mân chỉ kiếm ra lịnh tấn công, tiến lên tiêu diệt quân thù. Tiến lên. Tiến lên. Thế là
Gươm Đao vang động chân trời
Ngựa người ập tới mịt mù tên bay
Giặc Ân rời rả chân tay
Bảo tên mưa gió chết ngay bạc ngàn
Quân Nam mặt trận thắng giòn
Ngựa người lao tới đạp càn giặc Ân
Trên thành chiêng trống vang ngân
Thu quân trở lại chiến công lẫy lừng.
Trên đài quan sát, Triệu Tử Quân sắc mặt mỗi lúc một thêm kinh hoàng. Thấy chết liền 5 tướng, quân binh chết la liệt, hơn vạn quân đi đời, thời than thở ra lịnh rút quân về doanh trại. Suốt đêm không ngủ than thở mãi. Nói với các tướng, từ trước đến nay ta chinh chiến đã nhiều. Chưa thua trận nào nhục như trận nầy, đã mất 5 tướng hao binh hơn một vạn. Việc chiếm lấy thành Tây Giang đã có phần khó khăn tính liệu làm sao thở than mãi. HỒ MA YÊU nói: Không phải ta thua, mà ta quá chủ quan, đánh giá địch quá thấp. Binh gia thắng bại là chuyện thường. Chủ Soái yên tâm mai tôi ra trận sẽ lấy đầu bọn chúng tế Linh Hồn tướng sĩ. Triệu Tử Quân nói: Ta cũng cầu mong Hồ Lão tướng quân làm được như thế. Lão tướng quân cần bao nhiêu quân. Thưa Chủ Soái, thuộc hạ chỉ cần ba nghìn quân tinh nhuệ mà thôi.
**************
PHẦN 10
Tưởng đâu Nam Quốc dễ xơi
Nào hay bỏ mạng ở nơi xứ người
Xưa nay muôn sự ở đời
Ngông cuồn xâm lược mấy đời ai nên
Hại người, người hại liền bên
Thây phơi chật đất mấy khi còn về
Văn Lang Rồng hội Cọp hề
Nuốt quân xâm lược ngón nghề xưa nay.
Nói về Cao Lạc Hầu Vương, nhận lảnh Thủy Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm, tinh thần vô cùng phấn chấn. Cao Lạc Hầu Vương là nhà quân sự lỗi lạc tài ba, thống lảnh 20 vạn quân trấn thủ Đông Bắc Văn Lang, Đông Giao Chỉ. Không tiến về thành Đông Giang Châu, Quế Giang Giao Châu, Liễu Giao Châu mà kéo quân đến Trúc Lâm, Lạc Trung Châu hạ trại đóng quân ở đó. Đặc phái đội quân thám báo khắp mọi chổ mọi nơi. Bám sát theo dõi mọi động tỉnh của giặc. Trong lúc hộp bàn khẩn cấp lên kế hoạch đối phó với giặc. Thời có quân vào báo. Các thám tử mật thám xin cần gặp Hầu Vương. Cho họ vào. Xin tuân lịnh. Không bao lâu ba mật thám xuất hiện
Người thứ nhất báo rằng: Bẩm Vương Gia. Quân Ân đang chuyển về hướng Đông, liền tách chia ra làm hai mũi. Một mũi theo sông Trường Giang ra biển. Một mũi bộ binh tấn công qua đất liền.
Người thứ hai báo cáo. Bẩm Vương Gia: Cánh quân xuôi theo sông Trường Giang ra biển hơn nghìn chiếc thuyền lớn nhỏ. Có ba chiếc thuyền cực lớn ước lượng chừng 15 vạn quân.
Người thứ ba báo cáo. Bẩm Vương Gia: Cánh quân giặc bộ binh, kỵ binh tấn công đất liền. Xe cộ hàng nghìn chiếc. Hình như phương tiện dụng cụ công phá thành, ước lượng 35 vạn quân. Nghe qua tình hình báo cáo. Cao Lạc Hầu Vương nói: Quân Nam, Bắc ở sát bên nhau, núi liền núi, sông liền sông, biển liền biển. Có thể nói hiểu nhau nữa là khác. Nên sự xâm lược của chúng, phải nói là chu đáo khá đầy đủ, phương tiện, dụng cụ, khí cụ, Quân, lương, tướng tá, binh pháp, sách lược, chiến lược, chiến thuật dồi dào.
Chúng ta cũng chia làm hai ngã để đối phó với chúng. Đường bộ và đường thủy. Chúng chia làm 2 ngã tấn công ta. Đường bộ đánh phủ đầu. Đường biển đánh bọc hậu. Theo kế sách cắt đứt các đường, chi viện, tiếp viện. Đánh rắn đánh đầu. Những Châu mà chúng cho là trọng yếu đưa đến thắng lợi mau chóng.
Chúng ta chỉ có 20 vạn quân. Nếu dùng quân đối quân trực diện tấn công thời nguy cơ chiến bại là rất lớn. Chi bằng chúng ta giành lấy mọi chủ động, áp dụng kỷ thuật, vận dụng địa hình địa thế, đất nước gió lửa làm tiên phong ở mọi lúc mọi nơi. Nòng cốt chủ yếu vẩn là đội quân cảm tử sẵn sàng cống hiến đời mình cho quê hương non sông Tổ quốc, áp dụng chiến thuật quấy rối phân tán lực lượng giặc, dụ giặc vào bẩy để làm thịt, đã tấn công thời đánh vào chỗ yếu huyệt của chúng. Những chỗ giặc không ngờ tới, thiếu đi sự phòng bị đề cao cảnh giác. Vì thế sự đòi hỏi ở đây là tinh thần quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, dám nghỉ, dám làm, dám liều, quyết định vận mệnh non sông Tổ Quốc, sự thắng bại đều ở lòng quyết tử hay không quyết tử mà thôi. Chiến thuật né tránh đối diện chúng là chiến dịch tạm thời vì con mãng xà đang lúc còn sung sức. Vũ khí của chúng ta không chỉ có gươm đao, cung tên, giáo mác mà còn có núi, rừng, sông, hồ, gió, nước, lửa. Kế bẩy hào sâu, hầm chông, độc dược v..v. Mà còn có cả gươm Thiên Trấn Quốc, truyền thống nền Quốc Đạo dân tộc. Với cái lối đánh mượn gió hạ cây, ròng rọc kéo voi, lấy ít thắng nhiều, làm hoang man tinh thần của giặc. Hàng rào phòng thủ của ta lúc này là vườn không nhà trống. Quân giặc nóng lòng thôn tính nước ta, còn ta thời nhàn hạ tùy cơ ứng biến.
Nói tóm lại ta thời hiểu rõ về giặc mà giặc thời không hiểu rõ về ta, ý định và cơ mưu, thời phần thắng đã nghiêng về ta rồi. Chúng ta có thể biến núi thành gò, biến biển thành ao, biến Rồng thành rắn nước, để cho chúng kinh thường, để rồi nhận lấy đại bại.Cao Hầu Vương liền ra lịnh kêu gọi dân chúng trong thành ngoại thành, khẩn cấp di tản sâu vào đất liền nhất là bốn thành, Đông Giang Giao Châu, Lâm Quế Giao Châu, Liễu Giao Châu, Môn Hải Hạ Giang Châu. Tình hình quá khẩn cấp, Cao Lạc Hầu Vương liền phân bổ lực lượng như sau.
Cao Lạc Hải nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân thống lảnh 8 vạn quân thủy chiến đến Dạ Loan Châu trấn thủ eo Môn Hải Hạ Giang Châu, dụ giặc vào sâu đất liền tiêu diệt chúng tại đây, tuân lịnh.
Nguyễn Sinh Kỳ nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân điểm 1 vạn quân tới thành Đông Giang Giao Châu, kết hợp binh lính các Quận Huyện theo kế giăng bẩy, đào hầm hố, cọc chông, ngụy trang theo đường dọc ngan khắp cung thành, trên cung thành cũng giăng bẩy khắp mọi nơi, dọc ngang hai bên đường, những vật dễ cháy vung vãi khắp mọi nơi. Khi giặc tràn vào thành đến đâu là châm lửa đến đó cho chúng chạy loạn xạ sụp hầm mà chết. Dùng hỏa công tên độc triệt hạ thiêu rụi chúng, sau đó rút quân theo đường hầm bí mật ra sông Lạc chi nhánh của sông Trường Giang lẩn sâu vào rừng U Minh Hạ, ở đó đợi lịnh tiếp theo. Tuân lịnh.
Trần Nhân Luân nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân dẩn 2 vạn quân trấn thủ thành Lâm Quế Giang Châu. Chuẩn bị dầu sôi lửa bỏng, cung tên lưới sắt cố thủ thành, khi nào thấy núi Ngũ Chân có ánh lửa, chiêng trống nỗi lên inh õi nơi doanh trại của giặc, thời mở cổng thành xông ra tấn công tiêu diệt kẻ thù, tấn công hai mặt sau lưng đánh tới trong thành đánh ra, kẹp giặc vào giữa mà xơi. Tuân lịnh.
Nguyên Chấn Lạc nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân dẩn 3 vạn quân, cành lá ngụy trang ở dưới chân núi Ngủ Chân một dặm về hướng Bắc phục kích ở đó, khi nào thấy núi Ngũ Chân có ánh lửa, liền tấn công khúc giữa con mãng xà cắt đôi lực lượng đầu đuôi chúng ra. Tuân lịnh.
Cao Hùng Phi nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân dẩn 3 vạn quân, cách thành Lâm Quế Châu 3 dặm về hướng Đông mai phục ở đó, khi thấy ánh lửa núi Ngũ Chân bùng lên thời di chuyển áp sát đầu con mãng xà chờ khúc giữa con mãng xà bị tấn công trước độ chừng gần nữa cây nhang. Thời tiến quân xông trận đánh phủ đầu con rắn độc, không cho chúng quay đầu trở lại. Tuân lịnh.
Huỳnh Trung Hải nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân dẩn 1 vạn quân tới chân núi Ông Tượng gần U Minh Thượng, phục kích ở đó khi nhìn thấy ánh lửa ở núi Ông Tượng, thời tiến quân áp sát đuôi con mãng xà, chờ cho gần cây nhang, thời tấn công tiêu diệt khúc đuôi dồn chúng tháo chạy trở lại. Tuân lịnh.
Đinh Hùng Quân nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân điểm 5 nghìn quân phục kích ở huyện Lâm Giao. Không đánh giặc đến mà chỉ đánh khi giặc thua rút chạy. Tuân lịnh. Tuy bầu trời yên tỉnh, nhưng dưới đất khắp non sông Tổ Quốc lời cầu nguyện vẩn vang, vang cầu Cha Rồng Mẹ Tiên che chở.
**************
PHẦN 11
Nói về quân Ân ỷ sức mạnh, do Khương Hoàng Nhân, Triều Chấn Lôi, Tử Điền Phi. Thống lảnh hơn 50 vạn quân. Chia làm hai ngả. Một xuôi theo sông Trường Giang tiến về Đông Hãi, thuyền lao đi vùn vụt. Một vượt qua sông Trường Giang như thát đỗ, cuồn cuộn lao đi khói bụi mịt mù, kéo dài vài chục cây số. Tiến thẳng về thành Đông Giao sang bằng các Quận Huyện, gà chó cũng chẳn còn. Khi còn cách thành Đông Giang Giao Châu hơn 20 dặm về hướng Bắc. Thời dừng quân hạ trại nơi đó. Bàn luận kế sách công thành.
Khương Hoàng Nhân nói: Đây là cuộc chiến chỉ có thắng chứ không được bại. Vì cuộc chiến nầy là xóa sổ nước Văn Lang, vì vậy cuộc đánh đầu tiên là cuộc đánh vô cùng quan trọng, chỉ có thắng chứ không được thua. Bằng mọi giá phải lấy cho được thành Đông Giao, phải chuẩn bị dụng cụ công phá thành, lực lượng hùng hậu, thang dây, và các dụng cụ khác công phá thành. Mở màng chiến dịch thôn tính nước Văn Lang.
Khương Hoàng Nhân hỏi: Có tướng nào mở màng khai đao, mỗ gà, xẻ lợn không? Thấy các tướng có vẻ yên lặng. Khương Hoàng Nhân hơi có vẽ bực mình. Tử Điền Phi liền nói: Bẩm Thống Soái. Sá gì cái thành cỏn con đó. Thuộc hạ xin đi tiên phong lập công đầu. Khương Hoàn Nhân liền phê chuẩn cho đi.
Tử Điền Phi liền điểm 10 vạn quân kết hợp với quân: Sở, Yên, Tề lên tới 15 vạn quân, nhắm Thành Đông Giang Giao Châu tiến tới.
Nhắc về Nguyễn Sinh Kỳ theo kế sách chỉ đạo của Cao Hầu Vương Gia dẩn 1 vạn quân đến thành Đông Giang Giao Châu, cố thủ hai ngày. Ngày thứ ba, lúc trời sắp tối thì giả thua, dụ chúng vào thành dùng hỏa công, hầm chông, tên độc hạ gục chúng, độ chừng hơn canh giờ thời rút lui bảo toàn lực lượng. Khi rút lui thời châm lửa đốt sạch, nếu không đốt thời giặc cũng đốt phá, thà ta đốt trước thời có lợi hơn, không cho giặc lấy được một thứ gì. Lại chận đường rút lui bằng hỏa công, khói lửa mịt mù. Giặc không bao giờ tìm được đường rút lui của ta.
Đứng trên thành cao, Nguyễn Sinh Kỳ cùng các quan các tướng. Thấy quân Ân trùng trùng lớp lớp, xe cộ mịt mù thời lấy làm kinh hãi. Nhưng các quan, tướng nghĩ đến quê hương Tổ Quốc bị giặc Ân dày xéo, dân chúng lầm thang. Thời nộ khí xung thiên nỗi lên, râu tóc dựng ngược liền rút kiếm chỉ giặc Ân hét lớn.
Văn Lang ta xưa nay không xâm phạm đất Bắc. Nước giếng nào có xâm phạm nước ao. Thế mà sao các ngươi xâm lược tàn hại dân ta đầu rơi máu đổ. Quân xâm lược các ngươi phải chết, lũ ác ôn các ngươi sẽ bỏ mạng nơi đây. Quân xâm lược các ngươi phải chết, các ngươi sẽ bỏ mạng nơi đây. Tiếng hô vang càng về sau càng hào hùng. Hùng khí Nam Thiên, ai nghe thấy cũng khiếp sợ.
Giặc Ân nghe tiếng hô đầy hào hùng, đầy căm hận của quân Nam. Có một số đông binh lính giặc Ân đã sanh lòng khiếp hải. Tử Điền Phi nghỉ! Nếu chần chừ kéo dài thời gian sẽ gây bất lợi cho quân ta. Việc đầu tiên là phải khiêu chiến thăm dò thực lực của địch. Tử Điền Phi liền ra lịnh: Cơ Hầu Yên nghe lịnh! Có thuộc hạ.Tướng quân dẩn 5 nghìn quân tới sát cổng thành khiêu chiến. Tuân lịnh. Cơ Hầu Yên dẩn 5 nghìn quân kéo đến trước cổng thành khiêu chiến. Khiêu chiến đến nữa ngày vẩn không thấy quân Nam ra giao chiến. Dù cho giặc Ân khiêu khích chửi rủa chọc tức đến đâu. Quân Nam chỉ thủ thành không động tỉnh gi cả. Thấy quân Nam không dám ló mặt ra xáp chiến cứ co ro thủ thành. Cơ Hầu Vương nói: Bẩm chủ Soái! Có lẻ chúng thấy quân ta binh hùng tướng mạnh, nên không dám mở cổng thành ra giao chiến. Cố thủ chờ quân tiếp viện mà thôi. Chúng ta chỉ còn cách là công phá thành tiêu diệt chúng. Lử Hầu Tề Vương nói: Bẩm Chủ Soái. Một Thành Đông Giao cỏn con nầy thời có đáng sá chi. Quân Nam nghỉ cho cùng cũng chỉ là bất tài đồ bị thịt, không có gì là đáng sợ. Chúng ta đã càn qua một số Châu, Quận, Huyện. Chúng ra sức chống trả. Nhưng toàn là những binh lính tạp nhạp vô dụng. Thành Đông Giao nầy tuy có phần kiên cố hơn, nhưng binh sĩ cũng chỉ là loài ếch nhái, cá mè một bọn mà thôi. Chúng ta mau tấn công thành làm thịt chúng.
Tử Điền Phi nghe Lữ Hầu Tề nói chí phải. Liền ra linh cho một vạn quân. Kết hợp với quân Yên, Tề công phá thành. Tử Điền Phi không còn cách nào hơn mới ra lịnh tấn công phá thành.
Việc tấn công phá thành là việc hạ sách tốn kém, hao quân tổn tướng. nếu quân Văn Lang phòng thủ vững chắc, thời có thể 1 chọi 10. dù cho phá được thành, cũng phải trả cái giá rất đắc. Việc hao tổn về mình là rất lớn. Nhưng ở thế tiên phong cỡi cọp, thời chỉ còn cách là tiến về phía trước hạ gục đối phương. Giành lấy thắng lợi về mình chiếm lĩnh thành Đông Giang Giao Châu làm bàn đạp cho bước một. Thế là cuộc chiến, công thành bắc đầu. Vì chuẩn bị trước nên quân Văn Lang nắm mọi ưu thế chủ động. Vì dòng giống Tiên Rồng, truyền thống anh hùng. Vì non sông Tổ Quốc mà chiến đấu. Chiến đấu anh dũng, chiến đấu khôn khéo đầy mưu trí. Chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Trên dưới hai vạn quân Ân được lệnh tấn công hàng loạt xông lên tử chiến.
Thế là:
Lữa dầu trút xuống như mưa
Đá cây lao xuống nào thua thát gầm
Đất trời rung chuyển ầm ầm
Giặc Ân tan xát cháy thành bụi tro
Xác phơi như rạ như rơm
Tên Thần xé gió khiếp hồn giặc Ân
Thây giặc chồng chất như non
Điền Phi tức quá lộn gan lên đầu
Dồn quân xông tới mịt mù
Ba ngày mới phá được thành Đông Giao
Rền trời ngựa hí quân reo
Giặc Ân nước lũ tràng vô cung thành
Rồng Tiên biến mất thình lình
Bổng đâu lữa dậy đùng đùng khắp nơi
Lửa Thần tìm giặc mà xơi
Ngựa người khiếp vía đạp thôi ngựa người
Đạp nhau sống chết kể gì
Sói lan lũ giặc phen nầy ra tương
Hầm chông vùi xác giặc muôn
Chông xơi hầm nuốt còn chi cuộc đời
Yên, Tề tên độc trúng rồi
Hồn lìa âm phủ muôn đời đọa sa
Tưởng đâu tài trí ba hoa
Nào hay mắt bẩy phải sa đường cùng
Giặc Ân la liệt xác người
Ngông cuồn xâm lược bỏ đời tại đây
Điền Phi hồn phách tiêu ma
Chỉ còn 5 vạn lết la dọc đường
Tưởng đâu phá được thành rồi
Ngọc ngà châu báu mặc thời vét vơ
Nào hay chẳn có thứ chi
Khắp thành tro bụi bay đi tìm trời
Ở đời ăn cướp ở đời
Con đường kết cuộc mấy đời ai nên
Luật trời luôn ở kề bên
Chuyển xây bộ máy huyền vi tàn đời.
Nói về Tử Điền Phi ra lịnh tấn công tứ phía gần 2 vạn quân ồ ạc xông lên thành, càng xông lên thời càng chết. Ngày thứ nhất ngày thứ nhì, cho đến hơn nữa ngày thứ ba cũng chưa phá được thành. Quân Ân chết la chết liệt, ước lượng hơn 4 vạn quân. Tử Điền Phi tức Phát điên. Liền ra lịnh cho 11 vạn quân còn lại xông lên tấn công. Tức thời lớp trước ngã xuống lớp sau tràng lên. Càng lúc càng nhiều đông như kiến. Quân Văn Lang cố sức chống cự cho đến lúc trời gần sắp tối. Thời chống không nỗi nửa. Quân Ân phá cổng thành, leo tường ùa vô như cơn bão lũ. Nhưng kỳ lạ thay quân Văn Lang biến đi đâu mất. Bất ngờ lửa dậy khắp nơi, gặp lúc ngọn gió Đông Nam hoạt động mạnh. Ngọn lửa bốc cháy cao chín mười mét lan nhanh dữ dội. Quân Ân tràng vô thành đông như kiến, bất nhờ bị ngọn lửa thiêu đốt. Chạy toán loạn sụp hầm chông, hào chông, bẩy chông, quân Ân kinh hoàng hoảng khiếp.
Cơ Hầu Yên, Lữ Hầu Tề, cùng các quan tướng khác, biết mình đã sa lưới trúng kế địch. Nhưng đã muộn rút lui không kịp nữa, vì tên xơi, hào nuốt, lửa đốt, chông đâm. Quân binh hỗn loạn, người ngựa dẫm đạp lên nhau chết thôi là chết. Cơ Hầu Yên, Lữ Hầu Tề cùng các tướng lỉnh khác chung cùng số phận.
Tữ Điền Phi khiếp vía, tưởng đâu phá được thành, hốt trọn ổ quân Văn Lang. Làm thịt chúng cho hả giận. Nào hay đâu nhìn thấy cảnh tượng thê thảm. Quân binh chết ngổn ngang, có số cháy ra than, ra tro, ra bụi. Chẳng lấy được gì ngoài lớp tro bụi bay đi tìm Trời. Nhìn năm vạn quân còn lại bơ phờ xơ xác thương vong đầy mình lê lếch thảm thương. Tử Điền Phi đành thu quân trở lại thọ tội với Thống Soái.
Nói về Thống Soái Khương Hoàng Nhân luôn luôn cho người bám sát theo dõi cuộc chiến nghe chiếm được thành Đông Giao thời mừng rỡ. Chừng nghe lại thời 10 vạn quân đã đi đời, 5 tướng đi tiêu Yên - Tề xóa sổ. Quân Văn Lang biến đi đâu mất, thời kinh hồn bạc vía. Nhưng cũng ra oai. Ra lịnh. Đem Tử Điền Phi ra chém quách cho rồi. Ren đe tướng sĩ. Các quan tướng khuyên can mãi Tữ Điền Phi mới thoát được tội chết.
**************
PHẦN 12
Trời thu cao vót xanh xanh
Lá vàng rơi rụng đếm chân giặc thù
Gió thu vừa hận, vừa ru
À ơi non nước còn đâu yên lành
Quê hương tai họa thình lình
Giặc càn giặc phá lắm nghìn bi ai
Tiên Rồng nào dễ nuốt xơi
Chủ quyền còn đó muôn thời nghìn xưa
Dầu cho rau muối tương dưa
Trường kỳ kháng chiến giặc thua phen nầy.
Đây nói về Hùng Cao Vương. Nhận lảnh thanh Hỏa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm, thống lảnh 30 vạn quân trấn thủ.
1: Bắc Giang Giao Châu.
2: Lạc Giang Giao Châu.
3: Kinh Giang Giao Châu.
4: Giao Giao Minh Châu.
5: Quí Linh Giao Châu.
Đại quân lặng lẽ đi tới núi Vũ Khê. Thời đóng quân hạ trại, vì nơi đây là trục giao thương của Châu phủ, lại thêm địa hình vô cùng phức tạp. Dù cho trăm vạn quân, cũng khó mà thắng nỗi 30 vạn quân mai phục ở đây, là nơi đầy bí mật, thuận lợi cập nhật thông tin. Hộp bàn nghị sự kế sách chống giặc. Các quan tướng đang lên phương án đối địch thời có quân thám báo vào báo. Bẩm Vương Gia quân Ân đã tràng qua Nam sông Trường Giang như kiến. Nghe đâu trên dưới 60 vạn quân do Vi Tử Khải, Vi Tử Điển dẩn đầu. Vi Tử Điển dẩn quân theo đường bộ. Vi Tử Khải tiến quân theo đường thủy. Ước lượng 2.000 chiến thuyền lớn nhỏ trên dưới 30 vạn quân. Xuôi theo sông Tử Giang tiến sâu vào nước ta. Có lẽ giặc sẽ vượt qua từ Dương Châu, tiến đánh Lạc Giang Giao Châu rồi vượt qua Giao Giao Châu. Tiến đánh Quí Linh Giao Châu. Rồi theo hướng thuận lợi sông Giao qua sông Lạc, tiến đánh Kinh Kinh Giao Châu. Chiếm lấy Nam Kinh Xích Quỹ. Hùng Cao Lang nghe xong ngẩm nghỉ một hồi, rồi nhìn các quan các tướng nói. Giặc ra quân với một lực lượng hùng hậu chưa từng có trong lịch sử. Có thể nói giặc dốc toàn lực lượng xâm lược nước ta, ý định của giặc đã quá rõ, quyết xóa sổ nước Văn Lang trở thành thuộc địa của chúng.
Trong trận chiến này hoặc sơ sót hoặc tính sai nước cờ là giặc Ân sẽ đánh tới Kinh Đô Văn Lang rồi biến nước Văn Lang thành thuộc địa của chúng.
Lúc các quan các tướng đang say sưa lên phương án chống giặc. Thời có quân thám báo vào tâu bẩm Vương Gia. Hơn 30 vạn quân Ân do Vi Tử Điển thống lảnh, đang ồ ồ ạc ạc vượt qua Nam Trường Giang và lao thẳng về Bắc Giang Giao Châu rồi vượt qua Kinh Giang Giao Châu vì địa hình Kinh Giang Giao Châu rất phức tạp chưa phải là yếu huyệt của Bắc Giao Chỉ nên giặc sẽ bỏ qua thành này, tiến đánh Xích Linh Giao Châu, Kinh Kinh Giao Châu và nuốt Nam Kinh vào bụng. Tin khẩn cấp dồn dập, hết người nầy tới người khác, hết người nọ tới người kia.
Khẩn báo quân Ân, mỗi lúc một tiến sâu vào đất Văn Lang và nuốt lần từng Châu từng Quận từng Huyện. Có những Quận, Huyện binh lính không sợ chết lao vào giặc tử chiến. Những trận đánh không cân sức cuối cùng đã bỏ mạng tại sa trường.
Thơ rằng:
Khiếp cho con cháu Tiên Rồng
Chết cho non nước, sống còn về sau
Tinh thần chống giặc rất cao
Chết vì Tổ quốc biết bao oai hùng
Người chết thời chết một lần
Không già thời trẻ cuối cùng cũng đi
Sống đời nô lệ còn chi
Chết vì Tổ Quốc uy nghi cuộc đời.
Hùng Cao Vương cùng các chiến sỉ nghe các Châu, Quận, Huyện lần lược chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, tất cả đều tử nạn trong trận chiến thời lấy làm kinh phục nhưng cũng rất đau lòng, mãi mãi tự hào nòi giống Rồng Tiên.
Hùng Cao Vương nói, tuy cái chết của các binh lính Quận Huyện. Cái chết của sự liều lĩnh trứng chọi đá, cái chết không mấy kết quả, thiếu sỉ mưu, nhưng không phải cái chết của sự vô ích mà là sự mở màng cho sự thắng lợi về sau đó cũng là kế sách hay, làm cho quân giặc xem thường chúng ta, chúng càng coi chúng ta không ra gì thời càng có lợi cho chúng ta, chúng càng lún sâu vào kế bẩy của chúng ta.
Lại nữa giặc đã tạo cho chúng một thứ vũ khí vô cùng nguy hiểm cho ta, đó là thứ vũ khí hận thù, giặc càng chém giết dã man, càng chà đạp lên thể xác con cháu Tiên Rồng đã ngã xuống, tàn phá quê hương non sông Tổ Quốc chúng ta.
Thời chúng đã tạo cho quân dân ta, một sức mạnh đoàn kết triệu người như một, phực lên ngọn lửa hận thù ngút tận trời xanh, Lòng câm thù giặc đến cực điểm, thời những trận đánh quyết tử càng khủng khiếp, tiêu diệt thiêu rụi giặc Ân, khi kế sách chống giặc đã bàn xong, Hùng Cao Vương liền ra lịnh.
Mai Đức Thọ nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân điểm 3 vạn quân tức tốc tới Tử Dương Châu. Không là phải yểm trợ quân Tử Dương Châu, mà là mai phục ở thung lũng Tử Thần. Chờ khi quân Ân đánh bại quân Tử Dương rồi tiến quân qua khỏi eo Tử Thần, tiến sâu vào địa phận Lạc Giao Châu. Giặc sẽ để lại một ít quân để canh giữ bảo vệ khúc sông nguy hiểm này.
1: Tướng quân chọn 20 chiến thuyền giả làm thuyền giặc, đề cờ quân tiếp viện.
2: Tướng quân cho quân mai phục bao vây áp sát eo Tử Thần.
3: Những binh lính trên 20 chiến thuyền giã làm thuyền giặc toàn là tay võ nghệ cao cường, khi thuyền xáp lá cà phải thật sự mau lẹ ra tay nhanh chóng, đừng cho giặc bắn mật hiệu lên không, còn tên nào vào lên bờ tẩu thoát, thời đã có binh lính mai phục tốm cổ, tiêu diệt không để một tên sống sót, bảo toàn bí mật phục kích tuyệt đối.
4: Xử dụng thuyền giặc làm thuyền của ta, còn thuyền của ta thời tìm nơi ẩn núp kín đáo sâu vào kinh lạch, khi có hiệu lịnh thời xông ra mà tiêu diệt địch.
5: Tướng quân cho quân lính đóng cọc trận giữa lòng sông dài ba bốn dặm, cho quân phục kích dọc hai bên bờ sông bốn năm dặm, sự chửng bị phải thật khéo léo bảo mật tuyệt đối. Phục kích chờ đợi cho đến khi quân Ân thua trận kéo quân tháo chạy trở lại hoặc quân tiếp viện của giặc sa vào cọc trận, thời chúng ta dốc toàn lực với tất cả lòng căm hận trút xuống đầu chúng trả mối hận thù mà chúng đã hại nhân dân ta, rồi nói nhỏ một hồi những điều cơ mật. Nhìn vẻ mặt đầy sát khí của tướng quân Mai Đức Thọ cũng hiểu được phần nào. Có thể nói đây là một cuộc tử chiến một còn một mất giữa ta và giặc.
Huỳnh Trung Phong nghe lịnh: Có thuộc hạ, Tướng quân thống lảnh 10 vạn quân nhanh chóng tới gò Lạc Hồn, khúc sông Lạc Cội, cách thành Lạc Giang Giao Châu 25 dặm theo hướng Tây Bắc, nơi đây chính là vùng đất hiểm địa, khúc sông chết, địa phận rừng Âm U, dân địa phương ít ai đi qua khúc sông này, hai bên bờ sông lau lách cây cối rậm rạp nên giặc hết sức đề phòng vì vậy quân binh hết sức cẩn thận ngụy trang khéo léo, nhất là đừng cho chim chóc sợ hãi bay loạn xạ.
1: Tướng quân cho binh lính đóng cọc trận hai bên lòng sông, âm dưới mặt nước ba tất, tức là một gan rưỡi tay ( Thủy âm cọc trận).
2: Cọc cách cọc 1 mét, dài dọc theo hai bên bờ sông đến sáu bảy dặm, từ bờ trở ra cọc đóng rộng ra cở 20 mét và cuối cùng là đóng cọc đầy lòng sông âm dưới mặt nước một tất rưỡi gần một gan tay dài đúng 200 mét chận đứng thuyền giặc lại. Điều thuận lợi cho ta lúc này là vùng thượng nguồn đã có những trận mưa lớn, nên nước khúc sông chết nầy càng thêm vấy đục, làm tăng thêm hiệu quả thủy âm cọc trận của chúng ta. Thuyền giặc đi qua khúc sông này là ban ngày nhưng theo tình hình chiến sự mà giặc đã lần lượt đi qua, luôn luôn đem đến thắng lợi cho giặc, có thể nói là quá dễ dàng lòng kêu ngạo xem thường chúng ta. Thời có lẽ thuyền giặc đi qua khúc sông chết nầy vào lúc trời vừa sáng tỏ, thời coi như giặc không sợ gì nữa, sự cảnh giác đề phòng của giặc cũng đã giảm bớt, thuyền cứ giữa dòng sông mà đi, chúng sẽ nối đuôi nhau dài bảy tám dặm.
3: Tướng quân cho binh lính phục kích dọc theo hai bên bờ sông thưa thớt ngụy trang khéo léo, còn đại binh phục kích cách bờ sông 200 mét kéo dài dọc theo hai bên bờ sông chín mười dặm. Thấy thuyền giặc đã sa vào bẫy cọc trận chưa vội tấn công, khi nào có hiệu lịnh pháo phóng lên cao thời tấn công. Những bè chất đốt củi lau sậy tốc hành đẩy ra sông mồi sẵn chất dầu khi nào bè chất đốt đã áp sát thuyền giặc, tức thời dùng tên lửa bắn vào tạo thành trận hỏa công có một không hai trong lịch sử tiêu diệt quân xâm lược.
4: Những chiến thuyền giặc còn sống sót, ráng chèo ngược dòng sông để rút lui tẩu thoát, thời thuyền ta rược đuổi gần tới khúc sông Tử Dương eo Tử Thần thời rút lui trở lại. Tuân lịnh.
Bùi Xuân Mẹo nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân điểm 3 vạn quân tới huyện Lỗ An xã Tử Địa gò Mộ Ma, lợi dụng địa hình phức tạp, nơi đây toàn là rừng còi đầy gai gốc lại có nhiều gò đồi liên kết, đây là con đường duy nhất vượt qua Kinh Giao Châu, tiến đánh xích Linh giao Châu. Tướng quân cho quân lính đào hầm ẩn núp ngụy trang ẩn mình dưới đất, để cho giặc đi qua không ngăn cảng chi cả, giặc sẽ để lại một ít quân trấn giữ phục kích ở đây, làm trạm thông tin liên lạc và cũng là nơi hiểm địa để chúng thối lui, chờ trời tối thời bất ngờ dưới đất chui lên, chọn nhưng người võ công cao cường ra tay thần tốc mau lẹ, bất ngờ phất thuốc mê vào bọn chúng, còn số không bị thuốc thời nhanh như tia chớp tiêu diệt gọn sạch. Bảo vệ tuyệt đối bí mật của chúng ta, để lại một ít tên, dụ dỗ khéo léo khai thác những thông tin cần thiết bí mật của chúng. Khi đã nắm gọn thông tin ít nhất là 3 người khai giống nhau, liền cho quân phục kích giăng bẫy mà con đường khi cần thiết rút lui chúng sẽ đi qua, chờ cho chúng sa vào kế bẫy sa vào hào trận, thời dốc toàn lực xông ra tiêu diệt chúng, trừng trị cái tội xâm lược tàn hại dân ta và cũng cho chúng biết thế nào là sức mạnh uy linh của nòi giống Tiên Rồng. Tuân lịnh.
Cao Đình Luân nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân thống lảnh 10 vạn quân mai phục tại rừng Lâm Nguy giáp ranh giữa Kinh Giang Giao Châu và Xích Linh Giao Châu, nơi đây có 3 khu rừng như kiền ba chân, rừng Ông Cọp, rừng Ông Beo và rừng Quỹ, nếu để giặc qua khỏi ba khu rừng này, thời nguy cơ cho Xích Linh Giao Châu. Giặc muốn nuốt Nam Kinh Xích Quỹ thuận lợi nhanh chóng, thời không có con đường nào tốt hơn là thông qua con đường này vì thế giặc hết sức đề cao, cảnh giác, quan trọng hóa về ba khu rừng này.
Trời tối hoặc chiều tối giặc không những không đến gần, chớ đừng nói là giặc sẽ đi qua, muốn đi qua giặc phải cho người thám thính, nếu phát hiện có mai phục, thời giặc sẽ lập tức bao vây dùng hỏa công thiêu rụi ba khu rừng này, vừa tiêu diệt chúng ta, vừa dọn đường sạch sẽ, xong đâu vào đó thời đại binh của giặc mới đi qua, vì vậy hiểu được ý định của giặc thời ta mới thắng được giặc, vì vậy tướng quân phải hành sự theo phương án như sau: Theo lộ trình của giặc tiến quân, thời giặc vượt qua Kinh Giang Châu tới địa phận Xích Linh Giao Châu thời trời đã về chiều, khi giặc còn cách ba khu rừng chừng 5 dặm thời hạ trại. Chờ ngày mai trời sáng tỏ giặc mới hành sự theo kế sách tiến qua khu rừng này bằng phương án kết quả cao nhất, hiệu quả an toàn, vừa diệt được quân ta mai phục, vừa tránh được hỏa công khi đại quân băng qua khu rừng, vì vậy chúng ta hành động ra tay trước ý định của chúng, làm cho chúng bất ngờ trở tay chẳng kịp. Khi giặc hạ trại nghỉ chân con mãng xà khổng lồ có thể kéo dài đến chín mười dặm, vì vậy tướng quân tính toán cho thật kỷ, cho quân lính đào hầm mai phục ẩn mình dưới đất nơi giặc dừng chân hạ trại không xa, có thể nói gần sát chân địch, đây là chiến thuật đầy gan dạ của đội quân cảm tử phục kích ở chỗ mà giặc không ngờ tới, sự phục kích ấy ở đoạn giữa và khúc đuôi, đó là đội quân âm phủ còn đội quân dương gian thời phục kích gần đó không xa, sự bày binh bố trận như sau:
1: Là quân âm phủ ẩn mình dưới đất.
2: Là quân dương gian phục kích trên mặt đất.
3: Là quân ẩn mình phục kích trong ba khu rừng.
Cách thức tấn công con mãng xà như sau:
Ba khu rừng trực diện như kiền ba chân, chờ trời tối di chuyển quân, áp sát phần đầu, phần cổ con rắn, khi pháo hiệu tấn công đã nổi lên, thời đội quân thiết giáp rừng Ông Cọp tấn công vào đầu con mãng xà, tiếp theo sau là kỵ binh, bộ binh tấn công tới tấp dồn dập xuống đầu con mãng xà. Tiếp theo là hai cánh quân tả hữu rừng Ông Beo, rừng Quỹ. Hai đội quân thiết giáp hai bên tả hữu đồng loạt tấn công siết chặt cổ con rắn bằng sức mạnh đội quân thiết giáp, kỵ binh, bộ binh như hai gọng kiềm siết chặt cổ chúng. Khi cuộc chiến xảy ra rầm trời, rầm đất ở cổ và đầu con rắn, thời quân cảm tử âm phủ bất ngờ dưới đất chui lên, đội quân dương gian ập tới. Quân Ân khúc đuôi, khúc giữa lúng túng chỗ nào cũng thấy địch, đội quân âm phủ cảm tử banh xé nội tạng của giặc đứt từng khúc, đội quân dương gian lấn thế ào tới mà xơi tiêu diệt chúng. Tuân lịnh.
**************
PHẦN 13
Lòng tham muốn nuốt Văn Lang
Trụ Vương dồn dập quân sang giựt gành
Giới ranh còn đó đành rành
Cớ sao Trụ lại đưa người lấn xâm
Tự xưng là Thánh là Tiên
Xem ra một lũ cuồng điên thú cầm
Tự xưng là Thánh là Thần
Mà đi xâm lược, giết người, ác gian
Luật trời nào để huênh hoang
Thay Trời trừng trị nát tan phen này
Xâm lược nào gặt cái hay
Gặt toàn quả báo đầu bay chiến trường.
Đây nói về Vi Tử Điển, là anh ruộc của Ân Thọ Vương. Không được lên ngôi Hoàng Đế. Vì vậy luôn luôn mơ mộng đến Thế Giới cho riêng mình và đây chính là cơ hội. Nên nóng lòng muốn nuốt nước Văn Lang. Biến nước Văn Lang thành An Nam Quốc thuộc địa nhà Ân. Thống lảnh 30 vạn quân ồ ồ ạc ạc lao thẳng về thành Bắc Giang Giao Châu. Các Châu, Quận, Huyện, lần lược bị con Mãng Xà thành tinh khỗng lồ, nuốt vào bụng như nuốt một con kiến, con giun, con dế. Sự thắng lợi quá dể dàng ấy, đã làm cho quân tướng giặc Ân, càng kiêu căng ngạo mạng, coi Quân lính Văn Lang như cỏ rát. Dân chúng các Quận Huyện sợ quá trốn chui trốn nhủi, nhưng giặc nào có tha, chúng bắt được liền đem ra làm những trò vui như mèo vồ chuột, như mỗ gà xẽ lợn vô cùng thê thảm, thê thảm hơn là đàn bà con gái chúng tranh nhau vùi hoa dập liễu, chúng vùi chán chơi chê hoa tơi nhị rữa rồi vứt xác, dẩm đạp lên như đạp xác con giun, con dế, kiến xơi quạ mỗ. Có thằng như quỹ dữ ăn thịt trẻ con còn khen ngon khen béo.
Nói về thành Bắc Giang Giao Châu, nghe tin quân Ân xâm lược, với quy mô chưa từng có trong lịch sử chiến tranh. Binh hùng tướng mạnh lên tới trên dưới 160 vạn quân, con số khủng khiếp chia nhau tấn công đều khắp Tây Bắc Văn Lang, Bắc Văn Lang, Đông Bắc Văn Lang. Bắc Văn Lang giặc tấn công hai mũi chính đường bộ và đường thủy thời tức tốc một phần tích góp lương thực, một phần chuẩn bị lực lượng binh lính chống giặc. Cho người đến Nam Kinh Xích Quỹ cầu quân tiếp viện, đã phái người ra đi, đã bảy ngày sao không thấy trở lại, phần giặc Ân đại quân duy chuyển gần tới, phủ chánh Tư Mã Nhân lo lắng vô cùng. Câu chuyện là thế này.
Bố Thánh Hầu Bưu là vị quan của huyện Hưng Bình là 1 trong 7 Quận Huyện Châu Phủ. Bắc Giang Châu là Huyện có số dân đông nhất, đây là vị quan có tài ngoại giao lại có võ nghệ cao cường, nên được phủ Chánh Tư Mã Nhân giao cho nhiệm vụ trọng đại. Mang mật thư đến Nam Kinh Xích Quỹ, báo cáo tình hình giặc, cầu viện binh mã hoặc có kế sách chỉ đạo của Hùng Cao Vương. Bố Thánh Hầu Bưu đã ra đi hơn bảy ngày mà chưa thấy trở lại làm cho phủ Chánh Tử Mã Nhân đứng ngồi không yên, lại thêm giặc Ân mỗi lúc một tới gần, không còn cách nào khác hơn là tự mình giải quyết sự vụ, sự việc.
Nói về bố Chánh Hầu Bưu, ngựa đang phi vùn vụt, bỗng thấy ba người chận lại, nhìn cách ăn mặt khác thường, không phải dân địa phương, thời biết đó là ba tên sát thủ giặc Ân, Hầu Bưu lấy lại bình tỉnh rút kiếm chém tới phi ngựa vụt qua nào ngờ ánh kiếm của ba tên giặc chớp lên, tức thời cái đầu của Hầu Bưu bay đi lông lốc, chúng lục lạo tìm kiếm trong người Hầu Bưu thấy có mật thư liền nói, chủ soái quả đoán không sai rồi phi thân mất dạng.
Nói về 30 vạn quân do Vi Tử Điển làm thống soái, thống lảnh các trấn chư hầu lớn, nhỏ như. Trâu, Thái, Diệp, Tào, Tống, Trịnh còn hơn 15 dặm thời tới thành Bắc Giang Giao Châu thời cho 30 vạn quân dừng lại, thuộc Huyện Châu Dương đồng cỏ mênh mông, cảnh quang thống thoáng đúng là nơi lý tưởng cho bộ chỉ huy đóng ở.
Vi Tử Điển nói: Chúng ta đã tiến sâu vào đất Văn Lang hơn 60 dặm, các Quận, Huyện rơi vào tay ta cũng nhiều và chỉ còn 15 dặm nữa là tới Bắc Giang Giao Châu, việc đầu tiên là tìm ra tiên phong chủ soái thống lảnh đại binh đánh chiếm các thành trọng yếu tới chiếm lỉnh Kinh Đô Xích Quỹ hoàn thành giai đoạn một. Vi Tử Điển nghe danh Vũ Tử Như từ lâu, văn võ song toàn thông kim bác cỗ, cùng học một thầy với Triệu Công Tiển tại núi La Bảo, Động Ác Xà pháp thuật cao cường, là người có thể thống lảnh đạo quân làm nên nghiệp lớn. Vi Tử Điển liền ra lịnh.
Vũ Tử Như nghe lịnh: Có thuộc hạ. Ta phong cho tướng quân làm chủ soái. Thống lảnh 20 vạn quân, các trấn chư hầu Thái, Diệp, Tào, Tống làm tiên phong đánh chiếm các Châu Thành trọng yếu huyết mạch giao thương, giao chỉ. 1: Bắc Giang Giao Châu 2: Xích Linh Giao Châu 3: Kinh Kinh Giao Châu 4: Nam Kinh Xích Quỹ. Tuân lịnh. Hai mươi vạn quân do Vũ Tử Như lảnh đạo, khí thế dậy non dậy núi.
Thành Bắc Giang là thành sơ sài hơn hết trong các thành ở Bắc Văn Lang, binh lính tập hợp các Quận, Huyện chỉ hơn 3 nghìn người toàn là binh lính ô hộp, chưa từng tập trận, nên kinh nghiệm chiến đấu vô cùng non nớt, binh lính đứng trên thành nhìn xuống thấy quân Ân đông như kiến, như 1 con mãng xà dài thăm thẳm uống lượng lao đi. Người, ngựa, xe, cộ, gươm, đao, giáo, mác rợp trời, rợp đất khói bụi mịt mù lao thẳng về thành Bắc Giang Giao Châu thời kinh hoàng đến bủn rủn tay chân. Phủ Chánh Tư Mã Nhân nhìn thấy tinh thần anh em binh lính như thế thời thở dài nói. Hỡi anh em binh lính, giặc đã đến nhà ta thời ta không giết giặc, giặc cũng sẽ giết ta, chúng ta là con cháu nhà Trời, hai đấng Tiên Rồng, thời sợ gì cái chết, sống thời bảo vệ non sông Tổ Quốc, chết thời về Trời hoặc đầu thai làm người trở lại hoặc làm anh linh Hồn Thiên sông núi có chi là đáng sợ. Đây là lúc chúng ta xả thân vì non sông Tổ Quốc, đền đáp công ơn nước nhà, cũng là trả thù giặc sát hại đồng bào anh em ta. Tiến lên tiêu diệt bầy Lang Sói, trả mối hận thù cho những người đã ngã xuống tiến lên, tiến lên. Lời kêu gọi đầy chính nghĩa của phủ Chánh Tư Mã Nhân như một luồng thuốc Tiên thấm sâu vào tâm hồn chiến sĩ, bừng lên ngọn lửa anh hùng, ngọn lửa tiêu diệt quân thù bảo vệ non sông Tổ Quốc. Hơn 3 nghìn binh lính đồng hô vang khẩu hiệu. Chúng ta vì non sông Tổ Quốc mà tử chiến. Chúng ta vì đồng bào thiên hạ anh em mà tử chiến. Chúng ta theo gót cha ông đuổi ngoại xâm tử chiến.
Nói về 5 vạn quân tiên phong của giặc Ân do tướng soái Đề Cốt Ma dẫn đầu, khi cách thành Bắc Giang Giao Châu nữa dặm thời tỏa ra bao vây lớp trong, lớp ngoài kêu gọi binh lính thành Giang Châu đầu hàng, Trả lời giặc là những mũi tên bắn xuống. Đề Cốt Ma nỗi nóng ra lịnh tấn công. Thế là:
Thế là máu đổ đầu rơi
Giặc tràn lớp lớp ôi thôi còn gì
Ba nghìn quân lính ra đi
Chìm trong binh lửa còn chi cuộc đời
Giặc Ân người ngựa rợp trời
Gái trai già trẻ ôi thời thảm thê
Giặc ân khoái chí hả hê
Lục sùng châu báu ngón nghề từ lâu
Tay vơ tay vét túi sâu
Bò, Dê, Trâu Ngựa chúng đâu bỏ thừa
Trẻ con trong bụng càng ưa
Linh đơn diệu dụng còn thua món này
Trời ơi là hỡi ông trời
Yêu tinh quỹ dữ hay loài ác ma
Ăn xương nuốt máu người ta
Đất sầu trời thảm tuông ra hận thù
Hồn linh tử sỉ kia rồi
Căm thù quân giặc chẳng thời chịu tan
Giặc Ân thắng trận huênh hoang
Quân Nam con cóc chẳng hơn con gà
Đồng bào chúng đập chúng chà
Chúng gào chúng thét giống loài kênh kênh
Chúng rằng Nam Quốc sấm rền
Chẳng qua ếch nhái oàng ênh cầu Trời
Ở đời mấy kẻ hiểu đời
Đã loài xâm lược để rồi mà xem
Rồng Tiên nào để giặc yên
Chờ xem lũ giặc mấy tên sống còn.
Giặc Ân phá thành Bắc Giang Giao Châu như phá u gò mối, chiếm thành dễ như lấy đồ trong túi, chẳng tiêu hao binh lính là mấy. Hết chiến thắng này tới chiến thắng khác, hết thành công nọ tới thành công kia. Càng đi sâu vào đất Văn Lang, chúng luôn luôn gặt hái bao điều thuận lợi, càng lúc càng coi thường quân Văn Lang.
**************
PHẦN 14
Nói về Kinh Giao Châu, địa hình vô cùng phức tạp, theo kế sách của giặc là không cần đánh thành Kinh Giao Châu. Tiến đánh Xích Linh Giao Châu, thời một số các Châu, Quận, Huyện tự đầu hàng. Giặc chỉ cần dọn sạch đường tiến, cho quân bảo vệ con đường lui, chiếm lỉnh các nơi trọng yếu là thượng sách và cứ thế tiến sâu vào đất Văn Lang, vì thế giặc bỏ qua Kinh Giao Châu tiến đánh Xích Linh Giao Châu, giặc muốn thôn tính thành Xích Linh Giao Châu một cách thuận lợi phải đi theo đường tắc, chỉ cần qua khỏi đồi gò Mộ Ma và rừng Lâm Nguy thời đã coi như 80% thuận lợi.
Nói về Kinh Giao Châu địa phận phức tạp đất đai rộng lớn, thành trì kiên cố có thêm 12 Quận, Huyện nên số binh lính gấp đôi số binh lính Bắc Giang Giao Châu, nhân tài vì thế mà nhiều hơn. Vị Đại Nhân Châu phủ thành này là Trung Đại tên thường gọi là Trung Đại Nhân, có 3 người con 2 gái 1 trai, gái thời đẹp như Tiên Nga gián thế, trai thời khôi ngô tuấn tú phi phàm.
Ngọc Linh Châu là chị cả, Trung Hoài là em trai kế, Ngọc Thiên Hương là cô gái út. Khi Đại Kim Châu phu nhân sinh con gái út, thời hương thơm nỗi lên khắp nhà ai nấy cũng lấy làm kinh ngạc, cô út càng lớn càng xinh dẹp hơn cả cô chị lại có tài học đâu nhớ đấy, khi cô lên chín tuổi không có thầy nào dạy cô nỗi nữa. Trung Đại Nhân định gởi cô vào Kinh Đô Văn Lang để học. Một hôm cô đang chơi ngoài vườn hoa cây cảnh, bỗng nỗi lên một trận gió lạ cuốn cô bay đâu mất làm cả nhà ai nấy cũng đều sửng sốt, đau xót vừa nhớ, vừa thương, đến nay đã hơn 10 năm tính ra cô cũng đã 19-20 tuổi rồi.
Đây nói về Ngọc Thiên Hương đang chơi ở vườn cây cảnh, cô đang săm soi những cành hoa xinh đẹp, bỗng trận gió lạ cuốn cô lên mây. 5 vị Tiên Cô chấp tay hành lễ nói thưa Cung Chủ, Cung Chủ hãy theo chúng nữ về trời gặp Vương Mẫu Nương Nương, tức thời nắm lấy tay Ngọc Thiên Hương đằng vân giá vũ bay đi như tia chớp, không bao lâu thời tới Cung Vương Mẫu, Ngọc Thiên Hương nhìn thấy cảnh giới nơi đây, khác xa cảnh giới phàm trần. Lầu đài cung điện tráng lệ nơi đây, cấu trúc xây dựng toàn bằng vàng - bạc, kim cương, trân châu, pha lê, xà cừ, hổ phách, trang nghiêm, xinh đẹp lộng lẫy. Cô được các Tiên nữ đưa đi qua nhiều cung điện. Mỗi cung điện hoa văn, điêu khắc, chạm trỗ khác nhau, tinh vi có hồn như vật sống. Cô nào có biết những đồ trang trí toàn là vật chí bảo. Bảo bối của Vương Mẫu cung. Không bao lâu cô được các Tiên Nữ đưa đến một cung Điện vô cùng sang trọng lộng lẫy đến lóa cả mắt. Cô nhìn thấy Vương Mẫu ngồi trên tòa châu báu uy nghi rực rỡ vô cùng xing đẹp tuổi độ khoảng 30. Cô nào có biết Vương Mẫu Nương Nương tuổi rất cao có đến hàng triệu triệu năm. Vương Mẫu Nương Nương nhìn Ngọc Thiên Hương nói. Khổ cho con quá, Ngọc Thiên Hương nhìn Vương Mẫu sao thấy quen quá thân thiết như mẹ đẻ ra mình. Liền quỳ xuống Lễ Lạy. Nhìn thấy Ngọc Thiên Hương tâm linh minh mẩn sáng suốc liền khen. Tuy con mang xác phàm đầy ô trược, nằm trong ngục sanh tử chín tháng mười ngày. Mà Linh hồn con vẫn minh mẫn sáng suốt vô cùng âu đó cũng là nhờ con tu luyện hàng triệu năm. Vương Mẫu quay sang Ngũ Linh Tiên Cơ nói. Các con dẫn cung chủ đến Cung Kỳ Hoa truyền dạy Pháp thuật nhanh chóng. Để Cung Nữ trở về trần thế giúp Ngọc Tinh Tữ. Trị Quốc an dân lập công với Cội Nguồn lên ngôi Thánh Mẫu. Ngũ Linh Tiên Cô vân dạ liền dẫn Ngọc Thiên Hương đến Cung Kỳ Hoa. Ngọc Thiên Hương nhận thấy nơi đây sao quen thuộc đối với mình, tần ngần suy nghỉ. Năm vị Tiên Cô giật mình hốt hoãng, Cung Chủ quả thật lợi hại. Sợ Ngọc Thiên Hương phá vở màng u minh nhớ lại Tiền Thân của mình thì hỏng mất, làm hỏng Thiên Cơ của trời đất. Liền hóa phép không cho Nhọc Thiên Hương nghỉ tới nữa. Tức tốc truyền dạy Pháp thuật, kiếm thuật, Đạo Thuật, Nhơn Luân Hiếu Nghĩa, phép tắc nghi Lễ Vương Cung. Từ khi cô về Trời ở Cung Kỳ Hoa, Cô nhìn thấy tòa bảo tháp bảy tần. Hào quang sáng chóa, có các Tiên Cô thay nhau canh giữ. Vương Mẫu cấm không cho Cô đến gần. Cô nghe nói trong Bảo Tháp có vị Cung Chủ đang ngủ. Ngọc Thiên Hương chăm chú nhìn tòa Bảo Tháp suy nghỉ. Ở Thiên đàng mà cũng có nhiều điều bí ẩn. Thời có Tiên Nữ đến thưa rằng. Thưa Cung Chủ, Vương Mẫu cho gọi người. Tức thời Ngọc Thiên Hương đến Cung Vương Mẫu để nghe truyền chỉ. Thấy Ngọc Thiên Hương vào Vương Mẫu nói con càn lớn càn giống lắm, chỉ khác nhau ở xác phàm và xác Tiên mà thôi, Ngọc Thiên Hương nghe Vương Mẫu nói thời không hiểu chi cả. Vương Mẫu nói con đã xa gia đình hơn 10 năm, cha con sắp lâm đại nạn, con mau về trần thế cứu cha con để không kịp. Ngọc Thiên Hương nói con ở đây mới hơn có 3 ngày sao Vương Mẫu nói là con đã xa gia đình tới 10 năm, Vương Mẫu nói đây là cõi thiên đàng đương nhiên phải khác chốn nhân gian, con vốn có duyên với Ngọc Tinh Tử, sau này làm Mẫu Nghi thiên hạ, an hưởng thái bình sau cơn binh đao máu lửa. Vương Mẫu liền trao cho chiếc áo giáp Tiên để chống lại đao, kiếm, một tấm lưới, một con Thần Ưng, một thanh bảo kiếm. Con hãy uốn viên thuốc này vào sẽ quên hết chuyện ở đây, không bao lâu mản số trần gian Ngũ Tiên đón rước con về Thượng giới. Nghe lời Vương Mẫu Ngọc Thiên Hương liền nuốt viên thuốc vào bụng thời không còn biết chi nữa, khi Ngọc Thiên Hương tỉnh dậy thời thấy mình đang ở động Phong Lan thuộc dãy núi Hùng Phong Sơn, bên mình là một bà già tóc bạc. Ngọc Hương hỏi bà là ai, bà lão nói con quên hết rồi sao? Ta là sư phụ của con đây mà, rồi bà đọc lại các câu thần chú xử dụng bảo bối cùng bầu hồ lô đựng linh đơn giải độc với những điều căn dặn. Tiếng huýt sáo của bà vang lên thời Bạch Long Thần Mã bay đến, bà hối thúc Ngọc Thiên Hương xuống núi cứu cha ở huyện Hàm Giang, một huyện 12 quận, huyện Kinh Giang Châu, thuộc địa phận của cha quản lý. Ngọc Thiên Hương liền từ biệt sư phụ cởi bạch Long Thần Mã bay đi xuống núi, bà già liền rùng mình hiện lại nàng tiên xinh đẹp nhắm hướng trời xanh bay đi mất hút.
Đây nói về Diệp Lang là Cháu Đức Tôn của Hùng Tiên Lang Quốc Vương, con lớn của Điền Lang, nhận lảnh Địa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm, thống lảnh 10 vạn quân tiếp ứng quân Tây Thục Vương, có 3 nhiệm vụ chính,
1: Là chận đường tiếp viện, quân rút lui của giặc.
2: Là quân cứu viện, tiếp viện khi cần thiết.
3: Là bao vây khi thế giặc bị xé nhỏ.
Diệp Lang sau khi hạ trại ẩn mình xong, liền bí mật một mình dò la thám thính tình hình của giặc cũng như của ta, để mà tìm cách đối phó và đã biết được ba anh em nhà Tây Thục đánh cho giặc Ân một trận tơi bời. Đang trên đường tiếp tục thăm dò tình hình quân giặc, bỗng thấy một bóng trắng lao tới nhanh như chớp dưới ánh nắng hoàng hôn yếu ớt sắp lặng, Diệp Lang giật mình tưởng đâu giặc đã phát hiện ra mình, liền rút kiếm tấn công chém tới, bỗng nghe tiếng thanh tao như ngọc quát, đạo tặc hổn láo, Diệp Lang giật mình thâu kiếm lại. Té ra là cô, Diệp Lang biết lở lời liền nín thinh. Người con gái đẹp như Tiên Giáng Trần trợn mắt quát. Người là ai. Ta làm gì có quen với người vốn không oán, không thù sao ngươi lại ra tay độc ác định giết ta. Xin lỗi cô nương tại hạ hiểu lầm tưởng đâu là giặc. Nàng bỉm môi ngươi giặc thì có, thấy chàng thanh niên cứ nhìn mình chăm chăm. Ngọc Thiên Hương thẹn quá quát lớn, tránh ra sao ngươi lại cản đường ta. Lấy lại trầm tỉnh Diệp Lang hỏi cô từ đâu tới, cô có biết lúc này là lúc nào không? Lúc đang dầu sôi lửa bỏng, những trận đánh liên tục xảy ra.
Ngọc Thiên Hương bỉm môi nói, ai đánh ai chứ, chỉ có ngươi đánh ta thì có, Diệp Lang ngớ người, đứng thừ người ra nhìn cô gái một hồi, chẳng nói chẳng rằng vội vả bỏ đi. Ngọc Thiên Hương nỗi cáu thúc ngựa phi tới chận đầu, bỉm môi trợn mắt nói, ngươi khinh ta phải không, ta hỏi sao ngươi không nói. Diệp Lang nghỉ trong bụng đúng là oan gia rồi, thấy điệu bộ ngây thơ của nàng, khác gì trẻ con liền phì cười, thấy nàng nỗi cáu, Diệp Lang xuống giọng thi lễ rồi hỏi. Thật ra cô là ai từ đâu tới. Ngọc Thiên Hương thấy Diệp Lang lễ phép với mình thời hết giận ngay. Ngọc Thiên Hương thấy chàng trai trước mặt mình, không những bảnh trai khôi ngô tuấn tú, mà còn điền đạm oai phong hơn người, liền chấp tay thi lễ nói, tiện nữ là con của Vương phủ Trung Đại Nhân, tên là Ngọc Thiên Hương, Diệp Lang như không tin ở lỗ tai mình, liền hỏi lại cô là con gái của Trung Đại Nhân phủ gia à. Thấy cô gái có vẻ mặt giận dữ mặt đằng đằng sát khí, biết là cô đã hiểu lầm lời nói của mình, liền nói tiếp, nghe quân thám báo cho biết là cha cô sắp tử chiến với giặc Ân, có lẽ giờ này đã đánh với giặc Ân rồi sống chết ra sao chưa rõ. Ngọc Thiên Hương nghe Diệp Lang nói thế giật mình hốt hoảng la lớn ái chà, vội vả thúc ngựa bay đi vùn vụt. Diệp Lang giật mình nói Thần Mã, thấy nhiều cử chỉ lạ của cô gái, Diệp Lang liền huýt sáo, tức thời Thần Mã Bạch Long Câu xuất hiện, Diệp Lang phóng lên ngựa bay theo sau, tiếng sét ái tình đã nỗ từ lúc ấy.
Nàng là ai, sao nàng xinh đẹp quá
Làm hồn ta, say đắm ngất ngay
Là Tiên Nữ, hay nằm mộng ta đây
Ôi cô gái từ đâu nàng lại đến
Sóng lòng ta đã cuồng dân triều mến
Vần trăng tròn, rực rở vạn mùa xuân
Ta đã yêu và ta đã nhớ thương
Nàng là ai, sao ta mãi vấn vương.
Đây nói về châu phủ Đại Nhân dẩn hơn 6 nghìn quân, mai phục Hàm Giang, tuy biết mình quân ít, tướng yếu không thể đối đầu lại đại binh của giặc. Nhưng không lẽ để cho giặc tự tung, tự tác giết hại đồng bào, tàn sát dân lành, dày xéo quê hương. Thôi thà chết đi còn hơn, sống mà cúi đầu làm nô lệ, thời sống để mà làm gì.
Nghe tin Bắc Giang Giao Châu, binh lính vì non sông Tổ quốc đi vào tử nạn, không chút sợ sệt, lòng đau xót bùi ngùi xúc động. Ý nguyện hy sinh cho non sông Tổ Quốc trả thù cho anh em con cháu Tiên Rồng đã ngã xuống liền quyết tâm tử chiến đến cùng với giặc. Nhưng giặc quá mạnh, ta đánh sao đây cho có hiệu quả, làm sao giảm đi sức mạnh của giặc. Liền nghỉ ra một phương án, là đánh vào giữa khúc đuôi của con rắn có hàng trăm, hàng nghìn xe vận chuyển lương thực. Nếu thành công thời coi như lập được đại công gốp phần đánh đuổi quân xâm lược. Ba cha con Trung Đại Nhân nghỉ đến cảnh tiêu diệt giặc liền nỗi lên bao cảm khoái, chia nhau mỗi người hơn 2 nghìn quân phục kích gần sông Hàm Tử nơi giặc đi qua. Chờ cho 20 vạn quân Ân lần lượt qua sông Hàm Giang khúc sông Hàm Tử, khi đầu con mãng xà đã xa hơn 10 dặm. Còn khúc đuôi con mãng xà kéo theo hàng nghìn xe lương thực, gần một nữa đã qua sông, hơn một nữa chưa qua. Đây là cơ hội tiêu diệt giặc Ân, dù địch còn nhiều hơn ta gấp đôi vẩn cứ đánh. Lúc bấy giờ cơn mưa đã bắt đầu nhẹ hột, mặt trời cũng đã bắt đầu dần dần xuống núi. Tiếng tù tử chiến đã nỗi lên, tức thời cách Hàm Tử không xa, từ mé sông các lùm cây bụi rậm, chui ra lúc nhúc ào ào lao tới chém giết giặc Ân như vũ bão. Tinh thần quyết tử lại thêm chủ động, quân giặc bất ngờ bị quân ta tấn công xối xả, quân Ân ngã gục thây nằm chật đất, tên bay vun vút gươm giáo mịt mù.
Thơ rằng:
Cảm khoái nào hơn giết giặc ân
Giữ gìn tất đất của cha ông
Xả thân vì nước Hồn hiển Thánh
Trả thù, rửa hận nước non sông
Bình sanh dốc hết, đầu giặc rụng
Gươm giáo loáng loang xác giặc chồng
Hào khí phương Nam, Rồng mọc cánh
Cuồng phong nỗi dậy, khắp non sông.
Trung Hoài Nghĩa thét lớn. Lũ ác ôn ngoại xâm chết nầy, ầm ầm ầm tướng giặc trúng liền ba chưởng ngã ngựa chết tươi. Trung Hoài Nghĩa như cọp xông vào đàn dê quật ngã binh lính Ân rầm rầm. Bỗng nghe tiếng cười khanh khách nỗi lên, thì ra đó là tiếng cười của tướng giặc. Con cái nhà ai mà đẹp đến thế, để ta bắt sống làm món đồ chơi. Tướng giặc có vẽ xem thường người con gái trước mặt, đó cũng là yếu điểm của những tay háo sắc. Tướng giặc phi ngựa tới định quật ngả Ngọc Linh Châu bắt sống, Ngọc Linh Châu quát lanh lảnh, loài ác tặc ngoại xâm lũ các ngươi phải chết. Ngựa, người liền vút tới với chiêu vô ảnh kiếm uy lực vô cùng vu vu nghe rợn người chém xuống đầu tướng giặc nhanh như tia chớp. Ấy chà, coi đẹp thế mà cũng có ngón nghề dữ tợn, tướng giặc liền đưa giáo lên chống đở, bất ngờ Ngọc Linh Châu biến mất. Từ chiêu vô ảnh kiếm biến thành chiêu vô ảnh sát thủ. Tướng giặc kinh hoàng định bỏ chạy, nhưng đả muộn một tiếng rú thê thảm, tướng giặc đã trúng liền một kiếm sau đó là cái đầu bay đi lông lốc. Ngọc Linh Châu như con Phụng Hoàng xông vào đàn quạ đôi song kiếm quét vào quân thù như sấm sét, quân Ân thi nhau ngã gục.
Thơ rằng:
Giặc vừa thấy một bóng hồng chơm chớp
Thời đầu bay lớp lớp xác thây phơi
Tướng nước Nam hay là tướng nhà Trời
Giặc kinh hoảng trước bóng hồng vun vút
Như Phụng Hoàng, lùa vịt để mà xơi.
Bổng nghe tiếng quát như sấm chết nầy, Thanh Lao Đao trên tay Trung Đại Nhân, bỗng hóa ra 5 Thanh Đao với chiêu ngũ ảnh đoạt hồn tấn công nhanh như chớp. Thượng trung hạ, đầu mình và tứ chi, tướng giặc hoa cả mắt trúng liền một đao bỏ mạng. Quân lính Kinh Giao Châu thấy ba tướng giặc bỏ mạng, liền hăng máu xông lên như bão lốc người chém giết giặc Ân kẻ đốt phá lương thực, giặc Ân hơn 1 vạn quân đã đi tiêu hơn hai phần ba, chỉ còn 3 nghìn quân nữa sắp bị tiêu diệt đến nơi, hàng nghìn xe lương thực sắp bị phá vở thiêu rụi.
Có bài thơ rằng:
Rồng Tiên chính nghĩa mạnh vô biên
Chết sống kể chi giữa trận tiền
Dòng máu Lạc Hồng đâu sợ chết
Lao vào tử chiến, thật kinh thiên
Giặc Ân khiếp vía, tinh thần ấy
Truyền thống hùng anh, khắp mọi miền
Quốc Đạo anh linh, rền kim cỗ
Toàn dân quyết tử dậy cương biên.
Quân lính Kinh Giao Châu đang lúc hăng máu, say sưa tiêu diệt giặc Ân đốt phá lương thực, thời nghe quân reo dậy đất ngựa hí vang trời, thì ra quân Ân gần khúc đuôi đội quân chủ lực đã bọc bao vây trở lại bao vây trùng trùng lớp lớp. Chỉ còn hơn 2 nghìn quân giặc Ân sắp đi chầu âm phủ, thấy quân tiếp viện đến bao vây binh lính Kinh Châu, liền phản công quyết liệt. Giặc Ân trong đánh ra ngoài đánh vô, kẹp quân Kinh Giao Châu ở giữa. Bốn nghìn quân Kinh Giao Châu còn lại đụng độ với quân chủ lực, giặc Ân nháy mắt tất cả đều bỏ mạng lìa đời.
Thơ rằng:
Nào có sợ trước lủ bầy cáo, sói
Chí anh hùng, xông tới tiến tiến lên
Dù ngã xuống, nhưng hồn linh sống mãi
Diệt quân thù nào để sót một tên
Kìa cha ông đang tiếp hồn tử sĩ
Về Cội Nguồn về Tiên giới Thánh Tiên
Hỡi Hồn Thiên, hỡi anh linh trung dũng
Người ngã rồi, nhưng hồn vẫn đứng lên
Như núi cao, như hùng sơn sừng sửng
Mãi muôn đời bao thế hệ không quên.
Thấy cha và anh sắp bị giặc giết Linh Châu lao tới cứu cha và anh, trước mưa tên, bão giáo tên đã bắn trúng cô xối xả, cô từ từ ngã xuống gục nơi chiến trường.
Có bài thơ rằng:
Giặc Ân xâm lược nước nhà
Làm thân con gái cũng ra chiến trường
Tung hoành ngan dọc thư hùng
Đầu giặc rụng xuống như sung chín mùi
Tướng giặc khiếp vía rụng rời
Trời nam phận gái cũng thời liệt hoanh
Cỡi mây đạp gió xông lên
Trước bầy quỹ dữ lung linh sáng ngời
Tuy nàng đã ngã xuống rồi
Nhưng bầy quỹ dữ vẫn thời khiếp kinh.
Ngọc Linh Châu trúng tên nhiều quá, biết mình khó sống thét lên cha, anh con đi trước đây, nói xong Linh Châu nhắm mắt lìa đời, hồn bay về trời chầu Tiên Mẫu. Hai Cha, Con Trung Nhân thấy Linh Châu đã ra đi, thời dùng hết thần lực vào cánh tay Đao, Kiếm, đây là đoàn cuối cùng giết giặc theo Linh Châu sang bên kia thế giới về chầu Quốc Tổ. Với đường Đao cuối cùng cuồng phong nỗi dậy cát chạy, đá bay một vùng Đao pháp rộng lớn cuồn cuộn tuông ra trùm xuống đầu quân giặc. Tướng soái giặc Ân thấy thế thét lớn bắn, tức thời hàng trăm mũi tên đồng tên sắt bắn vào vùng Đao Kiếm tiêu diệt hai cha, con Trung Đại Nhân. Trước phút lâm nguy nghìn cân treo sợi tóc, bỗng hai bóng trắng xuất hiện với hai luồng kình lực một cương một nhu, đẩy hàng trăm mũi tên lệch xong một bên, đùng đùng ầm ầm quân Ân ngã gục mấy chục tên. Hai cha con Trung Đại Nhân thần lực cạn kiệt loạn choạng sắp ngã, liền bên tai có tiếng người nói mau sang ngựa, tức thời 2 luồng kình lực hút hai cha con Trung Đại Nhân bay lên không. Nói thì hơi lâu, còn việc xảy ra thời nhanh như chớp, quân giặc chưa kịp trở tay thời hai bóng trắng đã mất hút trước sự ngơ ngát của giặc, hai cha con Trung Đại Nhân không cánh mà bay.
Nói về hai cha con Trung Đại Nhân sắp kề cái chết, bỗng có người đến cứu không rõ là ai mà có võ công thần kỳ đến thế. Lần đầu tiên chứng kiến cảnh ngựa bay, ngựa phi ngày nghìn dặm đã là hiếm thấy, tuy trời đã tối nhưng hai cha con Trung Đại Nhân cũng cảm nhận được núi, rừng trôi qua vùn vụt ngựa đang bay. Hai cha con Trung Đại Nhân xưa nay chỉ nghe kể, nhưng hiện giờ thời tai nghe, mắt thấy, tay sờ đụng không thể chuyện kể hay chiêm bao gì cả mà là sự thật. Khi ngựa dừng chân, thời thấy 5 vị tướng quân ra mắt cung kính thi lễ nói. Đức Tôn Vương đi quá lâu, làm cho các thuộc hạ quan tướng lo lắng. Hai cha con Trung Đại Nhân nghe 5 vị tướng quân thi lễ trong 2 vị cứu mình, một vị là Đích Tôn Vương Tử, còn vị kia không rõ là ai thời vô cùng kinh hãi, liền quỳ lạy xin tha mạng cho tội thất lễ. Diệp Lang đỡ hai cha con Trung Đại Nhân dậy nói. Thật đáng khen cho tấm lòng vì dân vì nước của Đại Nhân, Vì nước quên thân, vì dân chiến đấu, chiến đấu anh dũng, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, ai nhìn thấy cũng sinh tâm kính phục. Ngọc Thiên Hương thời đờ người ra ấp a ấp ún Diệp Lang thấy vậy phì cười.
Hai cha con Trung Đại Nhân lại tiếp tục quỳ lạy ơn cứu mạng. Diệp Lang lại đỡ dậy nói. Người cứu hai cha con Đại Nhân không phải là bổn Vương, mà là cô con gái út của Đại Nhân. Ngọc Thiên Hương. Diệp Lang chỉ người con gái đã cứu ông thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Ông như người trong mơ ngơ ngát. Ngọc Thiên Hương nhào tới ôm lấy cha. Cha con xuống núi hơi trể, thiếu chút nửa Cha và Anh chầu Trời, con thật có lỗi xin Cha thứ tội cho. Vuốt chòm râu của Cha Ngọc Thiên Hương nói. Cha đã già đi nhiều, ông la lớn đúng là con rồi. Đúng là Ngọc Hương của Cha rồi. Ông ôm Ngọc Thiên Hương mà khóc. Cha nhớ con lắm, con đi đâu mà lâu thế đã hơn 10 năm rồi còn gì.
Nghe hai cha con Trung Đại Nhân nói chuyện, Diệp Lang đã hiểu ra tấc cả, thì ra là thế. Đúng là nàng không hay biết gì, có lẽ nàng vừa mới xuống núi, lòng bổng dân lên bao điều cảm xúc khó tả. Nhìn người con gái út, ông nhớ đến Linh Châu người chị cả của Ngọc Hương, em trở về thời người chị lại ra đi, hi sinh anh dũng nơi trận chiến. Hình ảnh Ngọc Linh Châu đã hiện ra như con Phụng Hoàng xông vào bầy sói dữ càng nghỉ nước mắt ông càng chảy ròng ròng. Ngọc Hương hốt hoảng, cha sao thế, ông ghẹn ngào nói, chị cả hi sinh rồi, xác chị con còn nằm nơi chiến trận, nói xong nước mắt ông lại càng chảy hơn, thấy cha và anh vô cùng đau khổ, Ngọc Hương nghiến răng nói, lũ ác ôn giặc Ân rồi đây chúng bay sẽ biết tay bổn cô nương ta sẽ cho các ngươi biết thế nào là lòng căm hận của những người thân, các ngươi đã tàn sát. Ngọc Hương nói, để con đi tìm xác chị về đây tạm thời an tán, sau khi tiêu diệt giặc Ân đem chị về châu phủ an tán tử tế. Nghe Ngọc Hương nói ai nấy cũng đều kinh hãi. Trung Đại Nhân, con nguy hiểm lắm, nguy hiểm lắm. Trung Hoài Nghĩa nói, hiền muội không nên đi vì lúc này giặc Ân chưa rời xa hết nơi chiến trận, để giặc bỏ đi anh sẽ tìm xác chị. Ngọc Hương nói từ đây đến đó cả hàng trăm dặm, giặc Ân tai mắt cùng khắp, để em cỡi Thần Mã tới đó chưa được nữa giờ, lũ giặc Ân không làm gì nỗi con đâu, hơn nữa con sẽ khôn khéo không cho chúng phát hiện cha, anh cứ yên tâm. Ngọc Hương đứng phất dậy, hai con mắt tỏa hào quang oai phong lẩm lẩm, giờ đây nàng không phải là con gái ngây thơ nữa mà là một Nữ Tướng anh hùng không khác gì chị của nó Linh Châu oai phong lẩm liệt. Ngọc Hương nhảy lên con Thần Mã bay lên không biến mất trong màn đêm u tối.
**************
PHẦN 15
Nói về Vi Tử Khải thống lảnh 30 vạn quân hơn 2 nghìn chiến thuyền lớn, nhỏ, khí thế dời non lấp biển, nếu quân Văn Lang không dốc toàn lực sức người, sức của hoặc thiếu đi sáng suốt, phán đoán không chính xác, thời sẽ dẫn đến hậu quả vô cùng tai hại, quân Ân sẻ dẩm lên đất Văn Lang như dẩm lên cỏ rác. Lòng yêu nước của người dân Văn Lang thật đáng kính nể, từ già đến trẻ dù trai hay gái ai nấy cũng xung phong tham chiến đuổi giặc Ân, hàng nghìn năm với truyền thống yêu nước của nền Quốc Đạo, cũng bởi vì truyền thống yêu nước đó cho nên các quận, huyện chưa kịp có lệnh rút lui hoặc di tản. Thời nhất nhất một lòng lần lượt đi vào tử chiến, dù biết đó là đi vào con đường chết. Huyện Giang Trạch là một minh chứng cụ thể, mở màng cho tinh thần chống xâm lăng đầy hào hùng thể hiện lòng bất khuất hiên ngang anh dũng trước quân thù, sau đó các Châu Quận Huyện cũng đều tử chiến như thế. Thành Tử Dương cũng đưa quân ra chống giặc tại eo Tử Thần cách thành Tử Dương 25-26 dặm, với truyền thống con Rồng Cháu Tiên gần 2 nghìn năm, luôn luôn nêu cao ý thức chống ngoại xâm, chống đến hơi thở cuối cùng, chẳng hạn như ba cha con Trung Đại Nhân cùng 7 nghìn quân lính đánh trận Hàm Giang khúc sông Hàm Tử, như trận chiến phủ chánh Tư Mã Nhân tại thành Bắc Giang Giao Châu và còn không biết bao nhiêu là trận chống xâm lăng đầy anh dũng nữa.
Nền Quốc Đạo Tiên Rồng, Hiến Pháp của nước Văn Lang, tuy đã có phần lệch lạc tam sao thất bổn qua truyền khẩu dẩn đến lệch lạc tinh hoa văn hóa Cội Nguồn, nhưng vẫn còn anh linh vô tận, hùng khí dân tộc vẩn còn cao vót sẵn sàng chết cho Tổ quốc, quyết sinh.
Đây nói về huyện Giang Trạch không những giàu về tôm, cá mà còn giàu về lúa, gạo mà người dân ở đây cũng giàu lòng yêu nước, nghe giặc Ân xâm lăng nước nhà, thời lòng sôi lên sùng sục. Chúng ta sinh ra từ quê hương đất nước có chi mà sợ, huyện Giang Trạch binh lính chỉ hơn 100, sau đó các làng xã, các quận, huyện, làng xã lân cận tham gia chiến dịch chống giặc lên đến 2 nghìn người. Lợi dụng địa hình hiểm trở, cung tên giáo mác phục kích khúc sông Triệt Giang, hai bên bờ sông lau, sậy, dừa nước sầm uất rậm rạp. Quân Dĩ An nhìn thấy thuyền giặc nơi đầu nguồn xa xa, xuôi theo dòng nước từ từ lao tới khúc sông Triệt Giang. Thuyền cách thuyền vài chục mét, thành một muỗi dài tận đâu đâu, thuyền giặc cứ giữa sông mà đi, gần đến khúc sông Triệt Giang thuyền giặc đi chậm lại. Ba cha con, bố Chánh Dĩ An nào có biết những chiến thuyền đi đầu của giặc là những chiến thuyền trang bị hiện đại. Không những là những chiến binh thiện chiến, thiện xạ, võ nghệ cao cường, trận pháp lại thông mà còn ván thuyền cũng chắc tên lao khó phá vỡ. Binh lính quân Giang Trạch là hỗn hợp chưa được tập luyện bao nhiêu, chỉ thấy giặc là đánh. Chờ cho thuyền giặc vào tầm ngắm sâu vào khúc sông Triệt Giang là tấn công ngay, thấy thuyền giặc đã vào tầm 5-6 chiếc, ba cha con bố Dĩ An phất cờ ra lịnh tấn công. Thế là tiếng hò hét vang dậy cả một vùng tên bay, giáo phóng như mưa nhưng thuyền giặc không hề hấn gì, giặc tạo ra tường đồng, vách sắt nhiều miếng ghép lại vô cùng nhanh chóng, hàng rào chống tên lao. Chỉ nge lăng ken như pháo nổ rang, tên lao rơi xuống nước lổm tổm như mưa trút. Thuyền giặc không bắn chống trả, chỉ hơi dừng lại rồi tiếp tục lao đi. Thuyền giặc đã hơn 20 chiến kéo dài hơn dặm, bỗng thình lình tấp vào bờ, người ngựa xông lên xáp chiến. Ôi thôi những con nai vốn không nanh vuốt, chưa nhiều kinh nghiệm, chiến đấu binh pháp còn non, đã gặp phải bầy hổ dữ, bầy cáo, sói đầy những răng nanh móng vuốt. Những con hổ, báo đang đói với bầy cáo, sói đang thèm thịt người. Thế là loáng mắt chúng liền chém sạch, thây người ngã đổ như chuối bị chặt.
Ba cha con bố Dĩ An đồng cùng chung số phận, giặc dẩm lên xác con dân Văn Lang, con cháu Tiên Rồng, chúng tru lên như quỹ dữ, sói điên, chúng còn nói đồ cóc nhái mà cũng vuốt râu hùm.
Sau có thơ ca ngợi rằng:
Sống chết ở đời có sợ chi
Vì non, vì nước có mấy khi
Người tuy ngã xuống, danh còn đó
Rồng Tiên mở hội mới kịp kỳ
Quốc Tổ Hùng Vương người có thấy
Cháu con nối gót thật uy nghi
Hồn nương theo gió ghì chân giặc
Trời Nam nay đã mở đề thi.
Trên dòng sông Tử Dương có một chiếc thuyền rất to lớn, xung quanh mấy trăm chiếc thuyền hộ giá, đó là thuyền của Vi Tử Khải đang đậu giữa dòng sông chỗ khúc sông sâu, bùng binh rộng lớn, bỗng có một chiếc thuyền nhỏ lướt mau như tên tới thuyền lớn, khi gần tới thuyền lớn, từ chiến thuyền con, một bóng đen bay lên như con chim Ưng hạ xuống thuyền lớn, đúng là một loại kinh công hiếm thấy ở đời. Kinh công thượng đẳng, bóng đen đó là một thanh niên độ 40-41 tuổi. Thì ra đây là một tướng chủ soái của giặc Ân, chấp tay thi lễ hướng vào trong thuyền nói, bẩm Vương Gia quân địch đã bị quân ta tiêu diệt nhanh chóng. Đúng như lời phán đoán của Vương Gia, quân Nam chỉ là quân bị thịt, chúng đã phơi xác đầy đất chật bải, trong khi quân ta tử thương có mấy người. Quân văn Lang cũng chỉ là ếch nhái, ngu si hơn loài lợn. Loài lợn thấy Cọp, Beo còn biết chạy trốn. Còn nầy chúng như cái trứng chọi đá, để rồi chết sạch không phải là ngu lắm sao. Không bao lâu nữa nước Văn Lang sẽ thuộc về tay Chúa Vương Gia. Bổng Vi Tử Khải xuất hiện khen. Tướng quân khá lắm. Không những giỏi về võ nghệ thuộc hàng thượng đẳng. Mà còn giỏi binh pháp, quân sự cơ. Không những thế mà còn khéo ăn nói, ta ở đây chờ tin thắng trận việc lấy thành Lạc Giao Châu. Ta sẽ tới đó bàn kế sách chiếm Nam Kinh Xích Quỹ. Thuộc hạ xin tuân lịnh, nói xong vị trung niên tướng quân ấy như con Đại Bàng bay lên không hạ xuống chiếc thuyền con loáng cái là mất dạng. Vi Tử Khải nhìn thấy cái tài kinh công ấy cũng phải lắc đầu thầm phục, quả đúng là một nhân tài hiếm thấy
Đây nhắc lại, nói về kế sách tiến quân của giặc Ân bằng con đường thủy. Vi Tử Khải cùng hơn hai nghìn chiếc thuyền theo chi nhánh sông Trường Giang vượt qua biên giới tiến sâu vào nước Văn Lang, thuộc Huyện Giang Trạch tới khúc sông Tử Dương bồng binh rộng lớn thượng nguồn của nhiều kinh lạch địa hình bằng phẳng cảnh quang thông thoáng nhìn xa đến 6-7 dặm liền cho thuyền neo đậu lại. Hộp bàn kế sách thôn tính nước Văn Lang. Thấy các quan tướng bàn sôi nỗi, nhưng toàn là vấn đề xa thực tế. Mao Toại thấy vậy liền nói. Theo tôi thì chúng ta nên bàn những vấn đề trọng yếu. Những thứ tự mà chúng ta lần lược tiến tới ta phải giải quyết bằng cách nào phương pháp cụ thể nhất. Chẳng hạn ta sẽ đến đoạn nào, nơi đó có những gì, và sự nguy hiểm của nó. Chúng ta phải có phương án tác chiến gọn nhất và nhanh nhất, ít làm tổn hại quân bị và binh lính. Như eo Tử Thần, khúc sông Tử Thần. Nếu có quân Văn Lang mai phục, thời ta tiêu diệt chúng bằng cách nào, hiệu quả nhất, gọn nhẹ nhất, đở hao binh lính chúng ta. Những khúc sông nguy hiểm đi qua, phải để lại quân canh giữ, liên lạc thông tin hoặc bắn pháo hiệu phát hiện khi có địch. Khúc sông thứ hai là khúc sông có thể nói là nguy hiểm vô cùng. Đó là khúc sông Lạc Cội rừng Lạc Hồn, khúc sông chết. Tuy khúc sông nầy khá rộng khoảng độ 200 mét lùm lách cây cối rậm rạp, lại có nhiều kinh rạch chạy ngang chạy dọc. Chúng ta không thể không đề phòng khi đi qua địa phận nầy. Tùy cơ ứng biến rút kinh nghiệm khi qua eo Tử Thần. Bổ sung ưu khuyết điểm, tiến qua khúc sông Lạc Cội rừng Lạc Hồn. Các quan tướng thấy Mao Toại phân tích cụ thể chuyên sâu vào trọng tâm của vấn đề, vừa linh hoạt vừa biến hóa ai nấy cũng phải thầm khen. Mao Toại là người học thức yên bác, võ công xuất chúng, cơ mưu tài trí thuộc hàng thượng thừa. Lại có cô em gái xinh đẹp như Tiên Nga gián trần điêu ngoa xảo quyệt thuộc hàng bật nhất. Người đàn bà gian ác đầy ngón nghề mánh khóe. Là món đồ chơi ưu ái không thể thiếu của Vi Tử Khải. Vì có cô em gái phục vụ đắc lực nên Mao Toại được Vi Tử Khải tin tưởng giao cho những trọng trách lớn. Nghe Mao Toại phân tách đầy hữu lý, Vi Tử Khải coi như đã tìm ra được Chũ Soái liền ra lịnh. Mao Toại nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân thống lảnh 20 vạn quân 2 nghìn chiến thuyền 400 binh lính thiết giáp, tiến đánh thành Lạc Giao Châu, vượt qua Giao Giao Châu tiến đánh Quí Linh Giao Châu đánh Kinh Kinh Giao Châu chiếm Nam Kinh Xích Quỹ, trước Vi Tử Điển em ta. Làm lễ ra mắt dân lên bệ hạ. Chúa Công tuân lịnh. Thế là Mao Toại thống lảnh 20 vạn quân cùng các trấn chư hầu. Vệ - Ngô - Lăng - Bái cho thuyền xuôi theo dòng sông Tử Dương tiến sâu vào lảnh địa của nước Văn Lang. Với tài điều binh khiển tướng bày binh bố trận, điều khiển 2000 chiến thuyền như sau:
*-1: 500 chiến thuyền 5vạn quân đi đầu tiên phong do Hồ Giả Nhân làm tướng soái tổng chỉ huy được phân bổ lực lượng như sau. 100 chiến thuyền đi trước, đi hàng một. Cứ giữa sông mà đi, thuyền cách thuyền độ 10 mét.
200 chiến thuyền kế theo đi hàng đôi thuyền cách thuyền 10 mét. Hàng trước cách hàng sau 20 mét. Có hai chiếc nhỏ đi hai bên ở đoạn giữa chở 100 binh lính thiết giáp, là hai chiếc thuyền chủ lực, di chuyển mau lẹ vô cùng, Và tấn công địch thủ vào chổ lợi hại nhất khi có lịnh của Tướng Soái.
200 chiến thuyền kế theo nữa, đi hàng ba thuyền cách thuyền 5 mét, hàng sau cách hàng trước 20 mét. Năm trăm chiếc thuyền 5 vạn quân tiên phong là đội quân xáp chiến chủ lực được trang bị phương tiện xáp chiền hiện đại nhất thời bấy giờ. Đội quân được coi như bách chiến bách thắng của giặc Ân.
*-2: Kế theo sau quân của Hồ Giả Nhân là quân Trịnh Hoài Điển cũng 500 chiến thuyền, 5 vạn quân. Là quân xáp chiến bao vây trận địa ở vòng một xé nát quân địch ra nhiều mảnh bao vây tiêu diệt. Quân Trịnh Hoài Điển cách quân Hồ Giả Nhân 200 mét, cứ ba hàng ngang song song, ba hàng dọc hàng trước cách hàng sau 20 mét. Có đội quân thiết giáp đi giữa ở hai bên, cũng chính là đội quân chủ lực xáp chiến những chổ địch mạnh nhất khi có lịnh của Tướng Soái chỉ huy.
*-3: Kế theo sau quân của Trịnh Hoài Điển là quân của Ly Tử Càn. Cũng 500 chiến thuyền, 5 vạn quân là quân bao vây ở vòng hai rộng lớn hơn khi đã đổ bộ lên mặt đất. Vừa chận đứng quân tiếp viện, vừa không cho quân địch chạy thoát. Thuyền cách thuyền 5 mét bốn hàng ngang bốn hàng dọc hàng sau cách hàng trước 30 mét.
*-4: Kế theo quân của Ly Tử Càn là bộ tổng thâm mưu cũng gần 500 chiến thuyền, 5 vạn quân cách quân Ly Tử Càn 200 mét, thuyền giăng năm hàng ngang năm hàng dọc. hàng sau cách hàng trước 30 mét 400 chiếc thuyền. Còn 100 chiến thuyền sau cùng giăng hàng 6.
Chính giữa đội thuyền thứ 4 cũng là đội thuyền cuối cùng có một chiếc thuyền to lớn chở mấy trăm binh sĩ. Đó là thuyền chở Mao Toại vị Chũ Soái tổng chỉ huy toàn cục. Điều hành tướng lỉnh đưa quân xâm lược thôn tính nước Văn Lang. Bảo vệ thuyền lớn có bốn chiếc thuyền nhỏ di chuyển vô cùng mau lẹ. Đó là thuyền chở 200 quân thiết giáp lợi hại vô cùng Đây là đội quân dự bị, bổ sung trận chiến, đội quân xáp chiến sau cùng, để ăn thịt những con mảnh hổ đã bị thương, hoặc đã kiệt sức ngất như. 5 đội tinh nhuệ 200 quân thiết giáp, là đội quân hùng mạnh nhất trong bốn đội quân. Thế mà lại chuyên ăn nước cờ tàn. Chỉ cần con tốt cũng làm nên chuyện lớn, huống chi là một lực lượng còn xe - pháo - mã. Có thể nói nước cờ xâm lược cao tay ấn nầy của Mao Toại, ứng dụng tấn công phòng thủ, tiếp ứng biến hóa lợi hại vô cùng. Với tài bày binh bố trận, điều binh khiển tướng, xuất quỹ nhập thần như thế, đương thời khó có người hơn được, vì vậy mà Vi Tử Khải rất tin tưởng ở con người nầy. Có thể nói với lối tiến quân đầy biến hóa, và mạnh như vũ bảo. Chúng luôn luôn tin tưởng nuốt quân Văn Lang như nuốt một con nhái. Bằng chứng cụ thể chúng nuốt quân Dĩ An còn để hơn lấy đồ trong túi. Thôn tính xong quân Dĩ An thuyền tiếp tục xuôi dòng. Hết Giang Trạch qua Tữ Dương tới Giang Châu cách eo Tữ Thần ba dặm thời cho thuyền dừng lại, đợi lịnh của Chủ Soái. Mao Toại báo tin xong liền trở lại thuyền. Thời thấy các tướng soái đã đợi sẳn.
Thì ra người đàn ông trung niên báo tin thắng lên Vương Gia Vi Tử Khải, không ai khác hơn chính là Chủ Soái Mao Toại. Mao Toại, khi nghe qua tình hình do thám eo Tử Thần phát hiện, thấy chim phát hiện có người bay toán loạn. Mao Toại cười ngất, có vẻ xem thường đắc ý lắm. Đúng là một lũ ngốc khác nào nói lạy ông tôi ở bụi nầy. Mao Toại nói tuy trời sắp tối nhưng có trăng sáng tỏ ta vẩn cứ đi qua. Dù có 3 vạn quân mai phục, chẳng qua đó cũng chỉ là những miếng mồi ngon cho ta xơi mà thôi. Liền nói nhỏ với ba tướng soái chỉ huy theo đó mà tiến hành. Có lẽ theo kế sách bí mật của Mao Toại là ba vạn quân xáp chiến đối diện cầm chừng thu hút lực lượng của địch dồn tới. Sáu vạn quân tỏa ra bao vây hốt trọn ổ mai phục. Và đúng như vậy khi giặc Ân phát hiện hai bên bờ sông rừng âm u, eo Tử Thần có người mai phục, liền cho sáu vạn quân tỏa ra lên hai bên bờ sông, mỗi bên 3 vạn quân bao vây rừng Âm U. Sự bao vây nầy quân lính Tử Dương không hề hay biết. Chỉ nôm nôm nhìn theo dòng sông chờ thuyền giặc sa vào ổ mai phục là đánh.
**************
PHẦN 16
Nói về Quan Phủ Chánh Bố Cái Đại Nhân, nghe tin giặc giết chết ba cha con Bố Dĩ An, thời đau xót căm hận lũ giặc Ân vô cùng. Bố Cái Đại Nhân nói với hai con, là Bố Cừ và Bố Khôi chú Họ cùng các em họ, các con đã ngả xuống, mối hận xâm lược thù nhà nầy ta phải tính luôn cả vốn lẩn lãi với chúng và eo Tử Thần là mồ chôn của lũ giặc Ân. Bố Cái Đại Nhân nói ý đồ của giặc, là chỉ cần chiếm được các Châu Thành trọng yếu. Thời các Châu Thành, Quận Huyện khác bỏ qua không đánh cũng tự đầu hàng. Các con hảy huy động các Quận Huyện. Chọn những tay thiện xạ cừ khôi, phóng lao thượng hạng, giỏi võ công tới eo Tử Thần phục kích tiêu diệt giặc. Eo Tử Thần là ranh giới của Giang Châu và Tử Dương địa hình phức tạp. Cách thành Tử Dương về hướng Tây Nam 27-28 dặm eo Tử Thần là khúc sông hẹp nước chảy xiết. Nếu người có sức mạnh vào loại khá, thời có thể từ bờ nầy sang bờ kia. Sự tính toán của phủ Chánh Bố Cái Đại Nhân phải nói là khá chu đáo, công phu, tiến tới mạch lạc. Phục kích ở eo Tử Thần đã hai ngày đêm. Đêm nay là đêm thứ ba, đêm quyết định vận mệnh giữa ta và giặc. Lòng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù bảo vệ non sông Tổ Quốc. Trả thù cho những đồng bào anh em đã ngã xuống.
Trời vừa xẩm tối, vần trăng tròn đã treo lơ lững trên ngọn cây. Thuyền giặc từ từ tiến gần đến eo Tử Thần 1 dặm, nữa dặm, rồi 100 mét 50 mét, 10 mét tới rồi. Thuyền giặc cứ giữa sông mà đi, thuyền đi chậm, thuyền cách thuyền 20 mét. Có hai thuyền nhỏ xen kẻ theo thuyền lớn lần lược tiến sâu vào eo Tử Thần. Ánh trăng xuyên qua lùm cây kẻ lá. Cảnh lốm đốm sáng tối vằn vệnh lổ hang u linh huyền ảo. Mặt sông lấp lánh cá lội tung tăng. Dòng sông đang yên bình tỉnh lặng. Bổng sóng dậy ầm ầm quân reo dậy đất, tên bay lớp lớp, lao phóng như mưa.
Thế là:
Ánh trăng lấp lánh Tử Dương sông
Cá lội tung tăng lướt ngược dòng
Bổng đâu gươm giáo rền sông núi
Máu chảy đầu rơi lấp ngăn sông
Thương thay chiến sỉ vì non nước
Giữ gìn tất đất của cha ông
Chết vì đại nghĩa, vì trung hiếu
Sáng bừng khí phách, rạng Tổ Tông.
Ba cha con thấy thuyền giặc đã sa vào lọt vào ổ phục kích liền chỉ giáo vào thuyền giặc thét lớn tấn công.Thế là quân reo dậy đất, tên bay lớp lớp, lao phóng như mưa. Thuyền giặc liền đứng lại chống cự. Tên qua giáo lại tên lại giáo qua mỗi lúc mỗi thêm dữ dội, tên lao như mưa trút. Quân Tử Dương càng đánh người nầy ngả xuống người khác đứng lên. Thuyền giặc muốn tấp vào bờ cũng không nỗi đã có một số binh lính giặc đã tử trận.
Sau có bài thơ ca ngợi rằng:
Khiếp cho con cháu Tiên Rồng
Vì non vì nước lướt xông diệt thù
Dẫu cho quân giặc trùng trùng
Rồng Tiên nào sợ cuộn cuồn xông lên
Dẫu cho giặc khắp Tây Đông
Tung hoành ngang dọc cũng không sợ gì
Tuy người đã ngã xuống rồi
Nhưng hồn đã nở một trời hoa xuân
Con đường chính nghĩa rộng thênh
Gương Thiên trung hiếu rạng rền cha ông
Hỡi ai con Lạc cháu Hồng
Vai mang chính nghĩa Tiên Rồng tiến lên
Cha Trời Địa Mẫu kề bên
Con đường truyền thống anh linh con đường.
Chiến trận xảy ra hơn một giờ qua giờ Dậu nữa giờ Tuất. Quân Tử Dương đang chiến đấu hăng say. Thời nghe sau lưng quân Ân đã thắt chặc vòng vây tiến sát sau lưng đánh bọc tới như thát đỗ. Quân Tử Dương liền bị kẹp giữa hai làn tên mủi giáo. Giặc tấp thuyền vào bờ xông lên. Giặc sau lưng tràng tới đèn đuốc trùng trùng điệp điệp, hai mũi giáp công. Quân Tử Dương loáng cái là chết sạch. Giặc Ân thắng liền hai trận, Triệt Giang và eo Tử Thần. Eo Tử Thần giặc có tổn thất nhưng không đáng kể. Còn Tử Dương thiệt mạng hơn nữa vạn quân. Thời lòng kiêu ngạo của giặc nỗi lên cao vót. Có tướng không kiềm hảm được lòng kiêu ngạo đắt ý thốt. Sự phục kích tiêu diệt quân ta cũng chỉ đến thế mà thôi. Quân Văn Lang cũng chỉ là con cọp đất, được nén lên vẻ vời mà thôi hữu danh vô thực. Nói cho cùng cũng chỉ là loài ếch nhái ềnh oang lỗ miệng, thùng rỗng kêu to có khác. Nói xong bọn chúng cười lên hềnh hệt coi quân Văn Lang cỏ rát.
Đây nói về Mai Đức Thọ. Theo lệnh của Hùng Vương Gia điểm 3 vạn quân tốc hành tới Tử Dương Châu. Cách eo Tử Thần khỏi rừng Âm U hai dặm ẩn núp khu thung lũng Tử Thần đừng để cho giặc phát hiện. Ngụy trang khéo léo đừng cho chiêm chóc phát hiện sợ hãi. Không phải là yểm trợ quân Tử Dương. Mà là thực hiện theo một kế sách bí mật. Sau khi quân Ân đánh bại quân Tử Dương bỏ đi, Thời mới thực hiện theo kế sách bí mật đó. Đã gọi là chiến trận phục binh cơ, càng bí mật thời càng thắng. Vì vậy mỗi hành động đều phải hết sức cẩn thận. Bất ngờ tiêu diệt địch. Sau khi 3 vạn quân ẩn mình kín đáo, thời quân dò thám do Mai Đức Thọ phái đi theo dõi tình hình quân giặc đã trở về bẩm báo lại tình hình. Bẩm chủ soái, quân Ân đã tỏa ra hai bên eo tử thần đông như kiến, hình như quân Tử Dương chỉ lo phục kích eo tử thần nên không hay biết gì cả. Mai Đức Thọ bỗng thở ra, Hùng Vương Gia diệu đoán như thần, quân Tử Dương khó mà thoát chết, rồi hạ lịnh án binh bất động bảo vệ tuyệt đối an toàn bí mật. Nghe tiếng binh khí chạm nhau, quân reo dậy đất nhưng mới hơn một canh giờ im bặt, không gian yên tĩnh trở lại, thế là hết, Mai Đức Thọ nghỉ quân Tử Dương giờ này chẳng còn một mạng, Mai Đức Thọ nghiến răng trẹo trẹo, quân ăn cướp, quân dã mang xâm lược, chúng mày sẽ đền tội, chúng mày đã dẩm chân lên đất Văn Lang thời không còn xác để trở về quê hương đất nước nữa, cho chúng mày kêu căng hách dịch rồi thi nhau về chầu âm phủ.
Nói về quân thắng trận vẻ vang, dừng quân khao thưởng tướng sĩ cho tới sáng. Chúng vứt xác quân Tử Dương xuống sông cho cá nuốt, tôm xơi. Có những tên hung tợn chúng đạp lên thể xác nạn nhân, lúc la lúc lắc cái đầu, dưới ánh trăng mờ cũng có thể lộ bộ mặt xù xì như da cóc với cặp mắt cú vọ, dều hâu, loài kềnh kênh, dồm thịt người chết chảy nước dãi. Loài hổ, báo nhìn thấy cũng phải lắc đầu cho loài yêu tinh khác máu, quá tàn độc không còn nhân tính của loài người. Lũ giặc Ân chúng đã chà đạp lên quê hương non sông Tổ quốc Văn Lang, giết người cướp của, ăn thịt trẻ con, hảm hiếp đàn bà con gái. Tội ác của lũ ngoại xâm đã cao như non, như núi và chúng cứ tiếp tục tiến sâu vào đất Văn Lang tiếp tục gây thêm nhiều tội ác mới tàn độc hơn nữa và chúng đã bắt đầu thọc sâu vào đất Văn Lang địa phận Lạc Giao Châu. Nơi eo Tử Thần, giặc để lại ba chiến thuyền hai lớn một nhỏ, khoảng độ hơn 100 quân tướng cầm đầu là tên mặt đen như lọ chão Hắc Hổ, lúc nào cũng khoát lác khoe khoan múa tay múa chân như con rối. Ta là vị tướng tài nên Mao Thống Soái mới phái ta chỉ huy canh giữ nơi đây. Với cái mũi trâu của ta có thể đánh hơi mùi giặc hơn 3 dặm với lỗ tai chuột của ta có thể nghe tới tận âm ti, cặp mắt lương ti hí của ta có thể nhìn thấu ruột gan của đàn bà. Nghe tướng chỉ huy nói những cái tài của mình thuộc hàng hiếm thấy ở thời nay, liền nịnh hót tán thán ca ngợi hò reo vang dậy cả rừng âm u, làm cho chim chóc bay lên loạn xạ. Chúng có biết đâu chúng vừa mới giết quân Tử Dương, thời có đội quân chủ lực nước Văn Lang tiến tới gần mai phục. Có thể nói chúng vừa nuốt con nai, nhưng đã có con hổ tới ăn thịt chúng. Hắc Hổ nghe binh lính ton hót nịnh bợ sướng tai, khoái cả mình liền ra lịnh chè chắn vui say cả ngày.
Một ngày sắp qua, mặt trời sắp đi ngủ, đàn chim cũng vội vã bay đi tìm nơi ẩn núp qua đêm, điều kỳ lạ ở đây sao hôm nay mặt trời chưa xuống đất trời bổng âm u đến lạ lùng, sương mù mỗi lúc càng thêm đày dặc. Đó có phải là do khí thiên sông núi kết hợp với anh linh tử sĩ, hồn thiên sông núi tạo ra để giúp cho quân chủ lực tiêu diệt kẻ thù. Chỉ có Trời Đất, Thần Thánh là hiểu rõ điều này. Bỗng 10 chiến thuyền đầu nguồn đỗ xuống theo dòng nước lao đi vùn vụt tới eo Tử Thần, đề cờ quân Ân tiếp viện lương thực. Một tên lính phát hiện la lên có thuyền có thuyền, nhưng vì sương mù dày dặc che khuất tầm nhìn, khi thấy được thuyền thời thuyền đã đến gần chỉ còn hơn 100 mét. Có người la lên bắn pháo hiệu mau. Khoan đã để xem thuyền ai rồi bắn pháo hiệu cũng chưa muộn. Thấy chưa tướng mặt đen nói, ta nói có sai đâu, khúc sông làm gì có thuyền địch, đó là thuyền của ta tiếp viện lương thực, may chưa bắn pháo nên chưa làm hỏng đại sự. Loáng cái thuyền đã sát thuyền, nhanh hơn loài sóc với những đường gươm thần tốc bay qua bất ngờ chém xuống đầu giặc véo véo, phặp phặp, chém giặc Ân như chém chuối, lính giặc Ân vừa tỉnh rượu thời hồn đã lìa khỏi xác. Tướng giặc Ân Hắc Hổ định nhảy xuống sông tẩu thoát, nhưng ánh sáng kiếm báu đã chớp lên, tức thời đầu tướng giặc bay đi lông lốc rớt tổm xuống nước, người chém đầu tướng giặc không ai khác hơn chính là tướng soái Mai Đức Thọ. Thế là nháy mắt trăm tên giặc đi đời làm hồn ma xứ người, bắt sống 10 tên với ngón nghề mưu trí, khai thát thông tin bí mật của bọn chúng, cuối cùng dụ dổ bọn giặc cũng có tên khai. Chúng khai rằng nếu thuyền ta thời bắn pháo hỏa xanh, thuyền bên kia cũng phải bắn pháo xanh đáp lại như vậy, bắn hai quả pháo xanh là báo hiệu nơi đây đã an toàn, bắn pháo hiệu một xanh một đỏ là báo hiệu địch đã mai phục, bắn pháo hiệu một vàng một đỏ là báo hiệu cầu cứu viện binh, nếu bắn sai mật hiệu đó là thuyền địch. Khai thát xong viên quan tướng liền hỏi, ngươi giết quân Tử Dương mấy mạng. Nghe hỏi thế tên giặc biết mình khó sống liền nhảy xuống sông tự vẩn, nhưng nào kịp ánh đao đã chớp lên thế là rồi đời những tên giặc cuối cùng. Những việc tuyệt đối quan trọng, Mai Đức Thọ phải tự mình làm lấy, tự mình giải quyết không thể nào giao cho ai được, với kế sách đầy gan dạ khôn khéo mưu trí nên đã gặt hái nhiều kết quả như mong muốn nhanh chóng, gọn sạch. Thôn tính bọn giặc xong, quân ta đóng giã làm quân giặc, 10 chiến thuyền chạy ngược dòng sông tìm nơi ẩn núp sâu kín trong kinh lạch, thực hiện kế sách nhiệm vụ tiếp theo. Mai Đức Thọ cho binh lính đóng cọc giữa dòng sông 5-6 dặm, đoạn giữa cọc trận, giữa eo Tử Thần đóng cọc đầy lòng sông hơn nữa dặm, chận đứng quân tiếp viện, chận đứng quân thua chạy rút lui, ép chúng vào hai bên lòng sông để tiêu diệt. Hai bên eo Tử Thần phân bổ lực lượng theo cơ trí phán đoán tình hình rút lui của giặc, phân bổ lực lượng chủ lực đội quân thiết giáp theo móc xích liên hoàn công thủ, vây bắt chủ thống soái Mao Toại khi sa bước đường cùng. Ba vạn quân Văn Lang với tinh thần quyết tử cao, ẩn mình kín đáo chờ giặc đến là xáp chiến.
**************
HẾT QUYỂN 1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét